Xanh Hoá Hạ Tầng Hướng Đến Phát Triển Đô Thị Bền Vững

PGS. TS. Lưu Đức Hải – Viện trưởng

Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ tầng,

Tổng hội Xây dựng Việt Nam

Phát triển đô thị bền vững trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng là nhu cầu cấp bách hiện nay, cần có sự chung tay của các cấp chính quyền và toàn xã hội. Sự quá tải và ô nhiễm ở các đô thị lớn của Việt Nam hiện nay đặt ra nhu cầu tất yếu của việc hình thành và phát triển đô thị xanh, bền vững. Trong quá trình xây dựng và phát triển đô thị theo hướng bền vững, việc tìm hiểu và ứng dụng các nghiên cứu về hệ thống hạ tầng xanh cần được quan tâm một cách đúng mức. Hệ thống hạ tầng xanh đóng góp phần không nhỏ vào việc phát triển đô thị bền vững nói chung và cho các đô thị của Việt Nam nói riêng. Tại Việt Nam, thuật ngữ “xanh” đã được đề cập trong các chính sách của Nhà nước như Nghị quyết số 148/NĐ-CP ngày 11/11/2022 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06/NĐ-TW ngày 24/1/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, yêu cầu phải phát triển đô thị xanh, đô thị thông minh. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có khái niệm đầy đủ, thống nhất về đô thị xanh, hạ tầng xanh và đô thị bền vững.

Hạ tầng xanh được một số nhà khoa học đề cập đến hồi cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, tuy nhiên hệ thống lý luận mới ở bước khởi đầu. Các thành phần xanh của Hạ tầng xanh thế giới chưa đề cập đến một cách hệ thống.

  1. Khái niệm về hạ tầng xanh, bền vững

Đô thị xanh là đô thị được quy hoạch, đầu tư xây dựng, nhằm bảo tồn các chức năng của hệ sinh thái, mang lại lợi ích cho con người, sử dụng tài nguyên hiệu quả, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu [1].

Hạ tầng xanh là hệ thống của môi trường nhân tạo có gắn kết với tự nhiên, dựa vào các yếu tố tự nhiên để hình thành thông qua việc quy hoạch, đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống hạ tầng (gồm giao thông, chiếu sáng, cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải, thoát nước mưa, công viên, nghĩa trang và an táng…) nhằm bảo tồn chức năng của hệ sinh thái, mang lại lợi ích cho con người, sử dụng tài nguyên hiệu quả, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu [1].

Giao thông xanh là hệ thống giao thông được quy hoạch, đầu tư xây dựng, nhằm thỏa mãn nhu cầu đi lại của mọi người, hiệu quả hoạt động giao thông cao với chi phí xã hội thấp, hài hòa với môi trường đô thị, bảo tồn chức năng của hệ sinh thái, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu [1].

Thoát nước xanh là mô hình áp dụng cách tiếp cận các hệ thống sinh thái tự nhiên được quy hoạch, đầu tư xây dựng, nhằm mang lại lợi ích cho con người, để kiểm soát và làm giảm ngập lụt cục bộ trong hệ thống thoát nước đô thị, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu [1].

Cấp nước xanh là hệ thống cấp nước được quy hoạch, đầu tư xây dựng quản lý nguồn nước, nhằm mang lại lợi ích cho người, bảo tồn hệ sinh thái nguồn nước, sử dụng tài nguyên nước hiệu quả, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu [1].

Công viên xanh là một khu vực không gian mở, có diện tích lớn, được quy hoạch, thiết kế và chăm sóc để tạo ra một môi trường xanh, gắn kết với thiên nhiên, mang lại lợi ích cho con người, bảo tồn các chức năng của hệ sinh thái, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu [1].

Chiếu sáng xanh là hệ thống chiếu sáng được quy hoạch, đầu tư sử dụng nguồn sáng chất lượng cao, hiệu suất cao, nhằm góp phần tiết kiệm điện năng, thân thiện với môi trường, mang lại lợi ích cho con người, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu [1].

Quản lý chất thải rắn xanh là quản lý hoạt động thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý rác thải đô thị, được quy hoạch, đầu tư xây dựng, nhằm bảo vệ môi trường, mang lại lợi ích cho con người, lợi ích kinh tế từ rác thải, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu [1].

Vệ sinh môi trường xanh là việc thực hiện các quy định về vệ sinh công cộng ở đô thị, nông thôn, các điểm dân cư bao gồm thu gom, vận chuyển và xử lý bùn cặn từ hệ thống thoát nước, bùn thải từ các bể tự hoại, được quy hoạch, đầu tư xây dựng, nhằm mang lại lợi ích cho con người, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu [1].

Nghĩa trang an táng xanh là hệ thống nghĩa trang được quy hoạch, đầu tư xây dựng để an táng người chết, sử dụng hình thức táng mới văn minh, hiện đại nhằm tiết kiệm tối đa đất, kinh phí xây dựng và đảm bảo yêu cầu môi trường và cảnh quan xung quanh, mang lại lợi ích cho con người, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu [1].

Đô thị bền vững là sự kết hợp hài hoà giữa kinh tế – xã hội, môi trường, chính quyền, không gian cảnh quan, cơ sở hạ tầng của đô thị nhằm nâng cao chất lượng sống của thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến nhu cầu phát triển của thế hệ tương lai [2].

  1. Bài học từ các mô hình xanh hoá hạ tầng quốc tế

Xanh hoá hạ tầng đã được triển khai thành công tại nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển. Các mô hình này không chỉ tạo ra không gian sống chất lượng cao, mà còn giúp giải quyết hiệu quả các thách thức đô thị như ngập lụt, ô nhiễm không khí, mất cân bằng sinh thái và thiếu công bằng không gian. Dưới đây là một số bài học điển hình:

Trung Quốc – mô hình “Thành phố bọt biển” (Sponge City)

– Trung Quốc bắt đầu triển khai sáng kiến “Sponge City” từ năm 2015 tại 30 thành phố lớn nhằm chống ngập lụt đô thị và cải thiện chất lượng nước (hình 1).

– Giải pháp nổi bật:

+ Áp dụng vật liệu thấm nước (permeable surfaces), mái xanh, vườn mưa (rain gardens), hồ điều tiết tự nhiên.

+ Quy hoạch sử dụng đất linh hoạt, tích hợp không gian xanh vào các khu dân cư.

Hình 1: Mô hình cơ bản của thành phố bọt biển, khi sử dụng mặt đường xốp ở đất nền. Đồ họa: Cơ quan cấp thoát nước Hong Kong [3].

Singapore – Thành phố trong rừng (City in a Garden)

– Singapore phát triển đô thị theo hướng “Thành phố trong rừng” (City in a Garden) với tỷ lệ phủ xanh đô thị đạt gần 47% tính đến năm 2020 (hình 2).

– Giải pháp nổi bật:

+ Chương trình “Skyrise Greenery” yêu cầu các tòa nhà cao tầng tích hợp mái xanh và tường cây.

+ Mạng lưới “Park Connector Network” kết nối công viên và khu dân cư bằng đường đi bộ, xe đạp.

+ Chính sách “Green Plot Ratio” quy định tỷ lệ phủ xanh bắt buộc trong các dự án phát triển.

Hình 2: Điểm nhấn của Gardens by the Bay là hệ thống cây nhân tạo cao tới 54m, có thể tạo ra năng lượng từ ánh sáng mặt trời, thông hơi cho các tòa nhà gần đó và hứng nước mưa [4].

Liên minh Châu Âu – Chiến lược Hạ tầng xanh (Green Infrastructure Strategy)

– EU ban hành chiến lược phát triển hạ tầng xanh năm 2013 nhằm tạo mạng lưới kết nối sinh thái trên toàn lãnh thổ (hình 3).

– Giải pháp nổi bật:

+ Ưu tiên giải pháp dựa vào tự nhiên (Nature-based Solutions – NbS).

+ Kết nối không gian xanh xuyên vùng, hỗ trợ bảo tồn đa dạng sinh học và thích ứng khí hậu.

+ Cơ chế tài chính từ Quỹ LIFE, Quỹ Khí hậu và Horizon Europe.

Hình 3: Các chiến lược Châu Âu kết nối với Hạ tầng xanh (1. Bản thiết kế bảo vệ nguồn nước Châu Âu, năm 2012/ 2. Sách trắng về việc thích ứng với BĐKH hướng tới khuôn khổ Châu Âu, năm 2009/ 3. Chiến lược đa dạng sinh học Châu Âu tới 2030 – đưa thiên nhiên trở lại cuộc sống của chúng ta/ 4. Lộ trình sử dụng tài nguyên hiệu quả/ 5. Bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên hoang dã, năm 2009/ 6. Thỏa thuận Xanh Châu Âu, năm 2019/ 7. Nghị sự Đô thị, năm 2016) –

 Nguồn: Interreg Centeral Europe [5].

Hoa Kỳ – Mô hình công viên tái sử dụng và mái xanh tại New York

– New York triển khai chiến dịch “MillionTreesNYC” (trồng 1 triệu cây) và công viên High Line – chuyển đổi tuyến đường sắt cũ thành công viên trên cao (hình 4).

– Giải pháp nổi bật:

+ Biến hạ tầng công nghiệp cũ thành không gian xanh đô thị đa chức năng.

+ Khuyến khích mái xanh, tường cây qua các ưu đãi thuế và hỗ trợ kỹ thuật.

+ Hợp tác công – tư để quản lý và duy trì không gian xanh.

Hình 4: Công viên Trung tâm thành phố New York nhìn từ trên cao được xây dựng trên vùng đất bỏ hoang [6].

Bogota (Colombia) – Hạ tầng xanh vì công bằng xã hội

– Dưới thời thị trưởng Enrique Peñalosa, Bogotá đầu tư mạnh vào công viên đô thị, đường đi bộ, đường xe đạp và cải thiện vùng trũng.

– Giải pháp nổi bật:

+ Mạng lưới xe đạp “Ciclovía” dài hơn 300km, phục vụ người dân thu nhập thấp (hình 5).

+ Phục hồi vùng ngập nước làm công viên sinh thái.

+ Tái cấu trúc đô thị từ ưu tiên xe hơi sang ưu tiên con người.

Từ các bài học kinh nghiệm ở một số quốc gia, ta có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam:

– Phải tích hợp xanh hóa từ quy hoạch tổng thể đến thiết kế hạ tầng kỹ thuật.

– Cần hệ thống tiêu chuẩn và giám sát đánh giá hiệu quả.

– Xanh hóa phải trở thành yêu cầu bắt buộc trong luật xây dựng và quy hoạch.

Hình 5: Giao thông bằng xe đạp ở Bogota [7].

– Tận dụng không gian dọc và chiều cao để tăng cường không gian xanh.

– Hạ tầng xanh không dừng ở cấp độ đô thị mà phải kết nối liên vùng, quốc gia.

– Cần sự tham gia của nhiều cấp chính quyền, cộng đồng và khu vực tư nhân.

– Xanh hóa hạ tầng có thể thực hiện thông qua tái sử dụng và chuyển đổi công năng.

– Cần lồng ghép yếu tố văn hóa, xã hội vào thiết kế không gian xanh.

– Hạ tầng xanh phải bảo đảm tính công bằng, tạo điều kiện tiếp cận cho mọi tầng lớp xã hội.

– Tăng cường kết nối không gian xanh với giao thông bền vững và sinh kế địa phương.

III. Thực trạng hạ tầng đô thị tại Việt Nam

Việt Nam đang trong giai đoạn đô thị hóa nhanh. Tính đến tháng 12/2024 tỷ lệ đô thị hoá ở Việt Nam là 44,3% với 900 đô thị: Loại đặc biệt: 2; Loại I: 23; Loại II: 37; Loại III: 46; Loại IV: 96; Loại V: 696. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra với chất lượng chưa đồng đều, thiếu định hướng xanh và bền vững.

Theo thống kê của Sở Giao thông Vận tải, Hà Nội có trên 8 triệu phương tiện đăng ký, gồm 1,1 triệu ôtô, hơn 6,7 triệu xe máy, 200.000 xe đạp điện, chưa kể 1,2 triệu phương tiện của tỉnh, thành phố khác lưu thông trên địa bàn. Trong khi đó, tỷ lệ đất dành cho giao thông của thành phố chỉ đạt 12-13% (theo quy hoạch, ít nhất phải đạt 20-26%); giao thông tĩnh chưa đạt 1% (theo quy hoạch, phải đạt 3-4%); gây áp lực về hệ thống hạ tầng giao thông đô thị (hình 6).

Nhiều đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM thường xuyên ngập úng khi mưa lớn do hệ thống thoát nước cũ kỹ, lạc hậu. Chẳng hạn, tại Thủ đô Hà Nội mưa vượt mức 70mm/giờ, thành phố sẽ xuất hiện thêm 19 điểm úng ngập.

Hình 6: Đường Nguyễn Trãi thường xuyên ùn tắc vào giờ cao điểm [8].

Theo thống kê, Việt Nam đang thải ra môi trường khoảng 60.000 tấn rác thải sinh hoạt mỗi ngày trong đó phần lớn là đến từ đô thị (60%). Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh là 2 đô thị có lượng rác thải lớn nhất: Hà Nội mỗi ngày phát sinh khoảng 7.000 tấn rác thải sinh hoạt, TP.HCM phát sinh trung bình 13.000 tấn chất thải rắn sinh hoạt. Trong đó gần 80% được xử lý bằng hình thức chôn lấp, chủ yếu là chôn lấp không hợp vệ sinh. Nhiều bãi rác đã trong tình trạng quá tải chưa trong nhiều năm qua mà vẫn chưa tìm ra hướng giải quyết.

Diện tích cây xanh bình quân đầu người còn thấp: Tại thành phố Hà Nội, diện tích cây xanh bình quân đạt khoảng 2 m²/người. TP.HCM ước tính chỉ đạt 0,55 m²/người, thấp hơn rất nhiều so với mức khuyến nghị của WHO là ≥9 m²/người.

Việc sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính tại các địa phương còn gặp nhiều lúng túng, khó khăn. Việc chỉ còn 2 đơn vị hành chính đó là cấp tỉnh và cấp xã dẫn đến nhiều đô thị có thể biến mất, gây khó khăn trong tính đồng bộ về cơ sở hạ tầng đặc biệt đối với hạ tầng xanh.

Hình 7: Biểu đồ thể hiện nhiệt độ của một số khu vực giai đoạn 1950-2018 [9].

Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank), Việt Nam là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu toàn cầu. Nhiệt độ trung bình tại Việt Nam đã tăng hơn 0,9°C so với giai đoạn tiền công nghiệp, mực nước biển tăng khoảng 3-5 mm/năm (hình 7).

  1. Giải pháp thúc đẩy xanh hoá hạ tầng tại Việt Nam hướng đến phát triển bền vững

Trong bối cảnh Việt Nam đang đối mặt với những thách thức đô thị hóa nhanh, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và suy giảm không gian công cộng, yêu cầu chuyển đổi mô hình phát triển hạ tầng theo hướng xanh là tất yếu. Dựa trên cơ sở lý luận, bài học quốc tế và hiện trạng trong nước, nhóm giải pháp xanh hóa hạ tầng cần được tiếp cận một cách hệ thống, đa ngành và có tính liên kết chiến lược. Dưới đây là các giải pháp trọng tâm được đề xuất:

Xây dựng chiến lược quốc gia về hạ tầng xanh: Việt Nam hiện đã có một số văn bản như Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tuy nhiên còn thiếu một chiến lược quốc gia riêng biệt, đồng bộ về phát triển hạ tầng xanh đô thị. Cần:

– Ban hành Chiến lược hạ tầng xanh quốc gia đến 2045, tích hợp với quy hoạch vùng và quy hoạch đô thị, lồng ghép trong Luật Quy hoạch, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Xây dựng và Luật Bảo vệ môi trường.

– Thiết lập bộ tiêu chí đánh giá hạ tầng xanh, các thành phần của hạ tầng xanh, đánh giá đô thị xanh,…

– Xây dựng bản đồ khu vực ưu tiên đầu tư hạ tầng xanh, dựa trên nguy cơ ngập, ô nhiễm, thiếu không gian xanh và các khu dân cư dễ bị tổn thương.

Cải cách tư duy quy hoạch theo hướng hạ tầng sinh thái: Hiện trạng quy hoạch tại Việt Nam vẫn chủ yếu theo mô hình “đô thị cứng”, thiên về bê tông hóa. Giải pháp là:

– Tái cấu trúc đô thị dựa vào các trục xanh – hành lang sinh thái như sông, kênh, mương tự nhiên. Chuyển đổi hệ thống cống kín thành kênh hở có cảnh quan.

– Quy định tỷ lệ không gian xanh trong mỗi đồ án quy hoạch, phân bố đều và có khả năng tiếp cận trong bán kính 500m cho mọi cư dân.

– Tái thiết kế không gian công cộng như công viên, vỉa hè, sân trường học theo hướng “hạ tầng linh hoạt – đa công năng”: thoát nước, giải nhiệt, sinh hoạt cộng đồng, hấp thụ CO₂.

Ứng dụng giải pháp dựa vào tự nhiên: Hạ tầng xanh không thể chỉ dừng ở cây cối, mà phải vận dụng giải pháp sinh thái tích hợp, tận dụng chức năng tự nhiên của đất, nước, sinh vật để giảm chi phí và tăng hiệu quả. Đề xuất:

– Phát triển mô hình “thành phố bọt biển” tại các đô thị lớn, ưu tiên sân vườn sinh thái, vỉa hè thấm nước, vườn mưa, mái xanh.

– Áp dụng thiết kế phân tán nước mưa thay vì dồn vào các kênh lớn gây quá tải, nhờ vào hồ sinh thái, bãi lọc tự nhiên, mương cây xanh.

– Phục hồi sông, hồ đô thị bị lấn chiếm, trả lại vai trò điều tiết thủy văn và không gian xanh liên tục, giúp tăng tính chống chịu của hệ sinh thái đô thị.

Ngân sách công cho phát triển hạ tầng xanh còn hạn chế. Do đó để đổi mới mô hình đầu tư và tài chính xanh nhằm xanh hoá đô thị và các thành phần của hạ tầng đô thị cần:

– Thiết lập Quỹ phát triển hạ tầng xanh đô thị, phối hợp giữa ngân sách nhà nước và vốn tài trợ quốc tế (Green Climate Fund, WB, ADB).

– Tăng cường hợp tác công – tư (PPP) cho các dự án công viên, tuyến đường xanh, nhà vệ sinh sinh thái, hệ thống thoát nước tự nhiên.

– Áp dụng cơ chế ưu đãi thuế, miễn phí thuê đất cho doanh nghiệp đầu tư hạ tầng xanh, công trình xanh (LEED, LOTUS), sử dụng vật liệu tái chế, năng lượng mặt trời.

Xây dựng năng lực địa phương và sự tham gia của cộng đồng: Thành công của hạ tầng xanh phụ thuộc vào năng lực thể chế và sự tham gia của cộng đồng:

– Đào tạo cán bộ quy hoạch, xây dựng, môi trường về quy hoạch sinh thái, thiết kế bền vững, đánh giá tác động của biến đổi khí hậu.

– Hỗ trợ các đô thị lập kế hoạch đầu tư hạ tầng xanh gắn với đặc điểm địa lý của địa phương, lồng ghép trong Chương trình phát triển đô thị.

– Phát triển các mô hình cộng đồng xanh hóa đô thị.

– Tăng cường truyền thông, giáo dục công chúng về quyền được sống trong môi trường xanh và trách nhiệm giữ gìn hạ tầng bền vững.

Triển khai thí điểm và nhân rộng các mô hình đô thị xanh tại Việt Nam: Trên cơ sở học hỏi các mô hình quốc tế như Singapore (Garden City), Đức (Green Belt Planning), Trung Quốc (Sponge City)…

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững”

Đăng ký nhận tư vấn