Sự Tham Gia Của Công Đồng Trong Quản Lý Chất Thải Rắn Sinh Hoạt Đô Thị Vì Mục Tiêu Phát Triển Hạ Tầng Xanh Bền Vững

Trần Văn Hành – PGĐ Trung tâm tư vấn Phát triển hạ tầng

Cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải sinh rắn hoạt

1.1. Cơ sở lý luận về nhu cầu và mức độ sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải sinh hoạt

Sự tham gia của cộng đồng thông qua nhu cầu và mức độ tham gia của cộng đồng.

– Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt là quá trình cộng đồng được tham trao quyền, có tiếng nói và trực tiếp tham gia vào các khâu thu gom, phân loại, giám sát và xử lý chất thải.

– Về nhu cầu của cộng đồng: Theo thuyết Maslow đã đề cấp đến 5 mức nhu cầu của con người gồm:

Hình 1: Tháp nhu cầu của Maslow [1].

Có thể thấy tháp nhu cầu của Maslow tập trung ở 5 nhu cầu chính của con người: Nhu cầu về sinh lý; Nhu cầu về an toàn; Nhu cầu về xã hội; Nhu cầu được quý trọng; Nhu cầu được thể hiện bản thân. Đây cũng là nhu cầu cốt lõi của cộng đồng dân cư sống trong đô thị.

– Về mức độ tham gia: Mức độ tham gia của cộng đồng được Arnstein thể hiện qua 8 mức độ; Choguill cũng đề ra 8 mức độ sự tham gia của cộng đồng dành cho các nước kém phát triển [2].

            Uỷ quyền Kiểm soát
  Hợp tác  
Động viên    
    Cung cấp thông tin Tham vấn      
Arnstein Giải pháp cộng đồng        
           
            Trao quyền
Vận động           Hợp tác
          Hoà giải
        Che đậy  
      Ngoại giao    
Choguill   Cung cấp thông tin      
  Âm mưu        
Tự quản lý          
           
             
               

Hình 2: So sánh các thang đo mức độ tham gia của cộng đồng của Arnstein và Choguill.

Tại nhiều quốc gia 8 bậc thang đo của Arnstein được sử dụng rộng rãi và được coi là những tiêu chí để đánh giá thực trạng, mức độ tham gia của cộng đồng trong các lĩnh vực khác nhau. Từ cung hình thức (cung cấp thông tin) đến thực chất (trao quyền kiểm soát).

Tác giả đề xuất trong báo cáo này sử dụng 8 thang đo mức độ tham gia của cộng đồng của Arnstein và từ nhu cầu của Maslow để đánh giá mức độ cộng đồng được tư vấn, phản hồi và trao quyền trong việc thu gom, phân loại, giám sát và xử lý chất thải.

1.2. Cơ sở pháp lý và hệ thống quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam

Hệ thống văn bản pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt cơ bản đã được lồng ghép thông qua Luật Bảo vệ Môi trường số 72/2020/QH14 ngày 17/11/2020 [3]:

+ Tại khoản 1 điều 4. Nguyên tắc bảo vệ môi trường khẳng định “Bảo vệ môi trường là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân”. Như vậy cho thấy việc tham gia vào việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt và vệ sinh môi trường là trách nhiệm và là nghĩa vụ của mọi người. Cũng tại khoản 6 điều này nêu trách nhiệm đóng góp tài chính của cộng đồng trong hoạt động bảo vệ môi trường.

+ Tại khoản 1 điều 5. Chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường có nêu “Tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân tham gia thực hiện, kiểm tra, giám sát hoạt động bảo vệ môi trường”. Như vậy cộng đồng dân cư có thể tham gia thực hiện, kiểm tra, giám sát hoạt động bảo vệ môi trường. Đồng thời bảo vệ cộng đồng dân cư trong việc đóng góp và khen thưởng đối với những đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường.

+ Tại khoản 7 điều 75. Phân loại, lưu giữ, chuyển giao chất thải rắn sinh hoạt có nêu lên tránh nhiệm phân loại chất thải rắn sinh hoạt của cộng đồng dân cư: “Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội các cấp vận động cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn. Cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị – xã hội ở cơ sở có trách nhiệm giám sát việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân”.

+ Tại khoản 3 điều 77. Thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt có nêu trách nhiệm của cộng đồng dân cư trong việc thu gom và vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt: “Cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã, cộng đồng dân cư, đại diện khu dân cư trong việc xác định thời gian, địa điểm, tần suất và tuyến thu gom chất thải rắn sinh hoạt và công bố rộng rãi”.

+ Tại điều 159. Quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư:

Đại diện cộng đồng dân cư chịu tác động môi trường của dự án đầu tư cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp thông qua đối thoại trực tiếp hoặc bằng văn bản, tổ chức tìm hiểu thực tế về công tác bảo vệ môi trường của dự án đầu tư cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp.

Đại diện cộng đồng dân cư chịu tác động môi trường của dự án đầu tư có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cung cấp kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý đối với dự án đầu tư cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp trừ trường hợp các thông tin này thuộc bí mật nhà nước.

Đại diện cộng đồng dân cư có quyền tham gia đánh giá kết quả bảo vệ môi trường của dự án đầu tư, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp.

Từ đó cho thấy cơ sở pháp lý cho sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý, vận hành, xử lý chất thải rắn sinh hoạt tương đối hoàn thiện.

1.3. Kinh nghiệm quốc tế sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải sinh hoạt

Sự tham gia của cộng đồng trong công tác xã hội hoá trong quá trình thu gom của Nhật Bản:

– Sau thời kỳ chiến tranh Nhật Bản bước vào thời kỳ phát triển giai đoạn (1955-1973) nền kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh chóng. So với thời điểm năm 1950, năm 1973 giá trị tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 20 lần, từ 20 tỷ USD lên 402 tỷ USD, vượt Anh, Pháp và CHLB Đức [4].

– Tuy nhiên trước sự phát triển thần kỳ đó Nhật Bản phải gánh chịu sự ô nhiễm về rác thải và nước thải trầm trọng.

– Chính phủ Nhật Bản đã đề ra nhiều giải pháp trong đó có chính sách giao quá trình thu gom chất thải rắn sinh hoạt cho các hiệp hội của địa phương phu trách thu gọm và bán chất thải có thể tái chế cho các công ty tái chế. Nguồn thu từ cộng việc này được sử dụng tài trợ cho các hoạt động của địa phương. Năm 1993, theo thống kê có 82.000 Tổ chức (trung bình 92 tổ chức/đô thị) tham gia vào quá thu gom chất thải. Các tổ chức này chủ yếu là các hiệp hội của thị trấn, hiệp hội trẻ em và hiệp hội giáo viên – phụ huynh. Theo tính toán thu gom từ các hiệp hội cộng đồng này có chi phí thấp hơn do đó chính quyền đã đồng ý hợp tác và trợ cấp cho các hội này thực hiện thu gom chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn [5].

– Đồng thời Nhật Bản cũng là quốc gia hàng đầu trên thế giới với sáng kiến xây dựng xã hội tuần hoàn vật chất dựa trên hoạt động chủ chốt là phân loại chất thải rắn tại nguồn. Để thực hiện kế hoạch đó Chính phủ Nhật Bản đã bàn hành bộ luật và kế hoạch thực hiện:

+ Luật Quản lý Chất thải năm 1970 và dựa trên các yêu cầu cấp thiết của xã hội cũng như các xu hướng tiêu dùng, vào năm 2000, Luật Cơ bản để Xây dựng Xã hội tuần hoàn vật chất đã ra đời nhằm thúc đẩy hoạt động 3R trên toàn quốc.

+ Quy định cụ thể đối với các loại chất thải đặc thù đã được ban hành nhằm có hướng dẫn cụ thể nhất trong hoạt động phân loại, thu gom và xử lý như Luật tái chế chất thải thực phẩm/ Xây dựng ra đời năm 2000, Luật tái chế phương tiện hết hạn sử dụng (2001)…

Hình 3. Một tấm poster ghi chú về cách phân loại rác ở Nhật [6].

+ Nhật Bản còn giới thiệu Kế hoạch Cơ bản nhằm hiện thực xã hội tuần hoàn vật chất vào năm 2003 (được sửa đổi năm 2008) với hai hướng thực hiện. Đầu tiên, từ việc quan tâm đến xử lý chất thải, Luật Vệ sinh công cộng và Xử lý chất thải được ban hành hướng dẫn phương pháp giảm khối lượng chất thải, xử lý hợp lý chất thải bao gồm các hoạt động tái chế, quy định về xây dựng các cơ sở xử lý, các công ty dịch vụ xử lý chất thải, các tiêu chuẩn xử lý chất thải… Hướng còn lại chú trọng đến tái chế/ tái sử dụng năng lượng và vật chất từ chất thải và được cụ thể hóa trong Luật thúc đẩy sử dụng hiệu quả tài nguyên (2001) với các nội dung cụ thể như tái chế tài nguyên có thể tái chế, các chỉ tiêu thu hồi năng lượng hay thúc đẩy sử dụng hiệu quả sản phẩm phụ. Đây chính là nguyên tắc cơ bản để hình thành và hướng dẫn thực hiện các biện pháp 3R [7].

+ Từ đó cho thấy hệ thống pháp lý của Nhật Bản đã quy định đầy đủ các nội dung về quản lý, vận hành chất thải rắn sinh hoạt, cụ thể hoá cho các loại chất thải từ thông thường tới đặc thù với mục tiêu cao nhất là giảm thiểu chất thải chôn lấp, tăng tỉ lệ tái chế tài nguyên và phục hồi năng lượng.

– Bài học rút ra từ Nhật Bản là: Phát triển mạnh mô hình xã hội tuần hoàn (Circular Society), giao cho các hiệp hội địa phương đảm nhiệm thu gom, phân loại rác, giúp giảm chi phí và tăng tính cộng đồng.

Bài học quản lý rác trước khi được thải ra của Bỉ

– Bỉ là quốc gia có lượng rác thải sinh hoạt được tái chế lớn nhất thế giới. Theo thống kê 75% rác của Bỉ được tái sử dụng, tái chế hoặc ủ phân [8].

– Bỉ đã tiến hành 2 quá trình quản lý rác thải cực tiên tiến đó là Ecolizer và Sự kiện xanh.

Hình 4. Quy trình quản lý rác của Bỉ [9].

+ Ecolizer là hệ thống trên web để quản trị việc sản xuất, đảm bảo lượng rác thải thấp và sạch. Hệ thống tính toán quá trình sản xuất, vận chuyển, tiêu dùng, năng lượng và xử lý chất thải, giúp các nhà sản xuất có thể đánh giá được tác động môi trường mà sản phẩm của họ sẽ gây ra. Từ đó đề xuất những cải tiến trong quy trình và trong khâu thiết kế sản phẩm, làm giảm hệ quả xấu tới môi trường. Chỉ cần một thay đổi nhỏ trong thiết kế, ta có thể giảm lượng nguyên liệu và rác thải đáng kể.

+ Sự kiện xanh cũng là một hệ thống quản lý trên web tương tự như Ecolizer, nhưng đối với những sự kiện. Hệ thống này giúp đánh giá lượng rác thải mà sự kiện có thể gây ra, những cách thức để giảm rác thải trong sự kiện và thậm chí danh sách những nơi cho thuê dao kéo tái sử dụng.

– Bài học rút ra từ Bỉ là: Áp dụng hệ thống “Ecolizer” – đánh giá vòng đời sản phẩm để giảm rác thải từ thiết kế. Hệ thống “Sự kiện xanh” giúp kiểm soát rác từ sự kiện cộng đồng.

  1. Thực trạng sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải sinh hoạt của Việt Nam

2.1. Thực trạng rác thải sinh hoạt của Việt Nam

– Theo Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường mỗi ngày Việt Nam thải ra môi trường khoảng 67.877 tấn chất thải rắn sinh hoạt [10].

– Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, trên 70% lượng rác này được xử lý bằng phương pháp chôn lấp, trong đó chỉ có khoảng dưới 20% là được chôn lấp hợp vệ sinh. Lượng rác chôn lấp không hợp vệ sinh đang hàng ngày gây ô nhiễm cho môi trường đất, môi trường nước và không khí. Trong số 30% được xử lý bằng phương pháp không chôn lấp thì cũng có đến 2/3 là được đốt tiêu hủy bằng các lò đốt rác thủ công, gây khói bụi ô nhiễm không khí.

– Tại thành phố lớn như Hà Nội lượng rác thải sinh hoạt phát sinh hàng ngày lên đến 7.000 tấn. Tại Tp. Hồ Chí Minh, mỗi ngày phát sinh khoảng 10.000 tấn rác thải sinh hoạt. Tuy nhiên hiện nay Hà Nội phải đối mặt với sự quá tải của bãi rác Nam Sơn. Hiện đã có một số nhà đầu tư đăng ký đầu tư khu xử lý rác thải ở Sóc Sơn, Nam Sơn và một số nơi khác nhưng mới chỉ có một Nhà máy đốt rác phát điện của Công ty Thiên Ý (Trung Quốc) đã chạy thử giai đoạn 1. Sau hơn một năm nhà máy vẫn chưa được nghiệm thu và vận hành chính thức.

Hình 5. Bãi rác Nam Sơn đang quá tải [11].

2.2. Thực trạng sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải sinh hoạt của Việt Nam

– Hiện nay quá trình thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt của Việt Nam được thực hiện như sau:

+ Bước 1: Phân loại rác thải (rắn, lỏng, khí,…)

+ Bước 2: Tiến hành thu gom tận nơi

+ Bước 3: Vận chuyển rác thải đến bãi tập kết để xử lý (rửa sạch hoặc ép gọn)

+ Bước 4: Xử lý, tái chế rác thải sinh hoạt

– Thực tiến hiện nay cho thấy sự tham gia của cộng đồng chưa đầy đủ theo các bậc theo 8 bậc thang đo của Arnstein. Cụ thể ở các bậc từ dưới lên như:

+ Bậc 1 – Vận động và bậc 2 – Giải pháp cộng đồng, sự tham gia của cộng đồng còn hạn chế.

+ Ở các bậc còn lại, sự tham gia của cộng đồng hiện mới chỉ ở mức hình thức, như cung cấp thông tin (bậc 3) chủ yếu là một chiều từ chính quyền ở trên thông báo xuống cộng đồng, mà chưa từ dưới lên và tham vấn (bậc 4) thì sáng kiến cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức, nghĩa là chưa có sự động viên (bậc 5) và hợp tác (bậc 6) thực sự với cộng đồng để nắm bắt được yêu cầu và nguyên vọng của cộng đồng.

+ Tương tự, lấy ý kiến cộng đồng thường thông người đại diện của cộng đồng, đó là ủy quyền (bậc 7) và quyền điều hành, kiểm soát (bậc 8) lại dựa vào chính quyền [2].

Đánh giá sự tham gia của cộng đồng theo quá trình thu gom và xử lý rác thải:

– Phân loại rác thải (rắn, lỏng, khí,…)

+ Phân loại rác tại nguồn nhằm tách rác có giá trị tái chế tại nguồn góp phần tạo nguồn nguyên liệu cho hoạt động tái chế, giảm khối lượng chất thải rắn sinh hoạt được chôn lấp.

+ Tuy nhiên hiện nay các chương trình, kế hoạch phân loại rác thải tại nguồn tại các đô thị phần lớn chỉ mang tính thử nghiệm, chưa quyết liệt và chưa động bộ.

Điển hình là thành phố Hà Nội với dự án phân loại rác tại nguồn (3R) do Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ với 4 triệu USD được triển khai thí điểm trên tại bốn phường của nội thành Hà Nội gồm Phan Chu Trinh, Nguyễn Du, Thành Công và Láng Hạ. Hơn 18.000 hộ gia đình được huấn luyện phân loại rác tại các phường này trong giai đoạn 2006-2009. Tuy nhiên sau khi dự án kết thúc việc phân loại rác thải tại nguồn lại không được duy trì [12]. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của dự án phân loại rác tại nguồn tại thành phố Hà Nội như: Ý thức đại bộ phận người dân còn thiếu ý thức; Quá trình thu gom lại trộn lẫn các loại rác lại với nhau để vận chuyển; Quy trình, công nghệ xử lý rác thải chưa phù hợp, thiếu đồng bộ; Rác thải hữu cơ được xử lý thành phân bón vi sinh nhưng đầu ra cho loại phân bón này thiếu ổn định, rất khó tiêu thụ trên thị trường và không có đơn vị bao tiêu sản phẩm.

Hình 6. Mô hình quản lý rác thải tại nguồn 3R = Giảm thiểu (Reduce), tái chế (Recycle) và tái sử dụng (Reuse) [13].

  • Ngoài thành phố Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh cũng đã thí điểm phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn từ năm 2002 với lộ trình rõ ràng như nếu năm 2017 mỗi quận/huyện thực hiện ít nhất tại một phường/xã/ thị trấn thì năm 2018 mở rộng số lượng từ 3-5 và đến năm 2020 thì triển khai trên toàn địa bàn thành phố. Tuy nhiên thí điểm này lại không thu được kết quả như mong muốn. Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến kết quả trên là do các hộ dân chưa chủ động phân loại; công tác tuyên truyền và triển khai chưa đồng bộ… Cũng tương tư thì các tỉnh khác cũng triển khai dự án tương tự như: Hưng Yên (2012 – 2014), Bắc Ninh (2014), Lào Cai (2016), Bình Dương (2017-2018), Đồng Nai (2016 – 2018), Đà Nẵng (2017), Hà Tĩnh (2019)…

Hình 7. Rác thải tại TP. Hồ Chí Minh [14].

+ Như vậy phân loại rác tại nguồn của Việt Nam thất bại là do nhận thức và ý thức của người dân chưa cao; Phương tiện thu gom còn thiếu chưa đồng bộ; Công tác tuyên truyền hướng dẫn cộng động dân cư tham gia vào phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn còn nhiều hạn chế.

– Tiến hành thu gom tận nơi và vận chuyển rác thải đến bãi tập kết để xử lý (rửa sạch hoặc ép gọn).

+ Hiện nay việc thu gom rác thải tại các hộ chủ yếu sự dụng phương tiện xe thu rác đẩy bằng tay sau đó chuyển đến điểm tập kết rác do các công ty cung cấp dịch vụ môi trường thực hiện thu gom.

+ Tuy nhiên do khối lượng rác thải sinh hoạt quá nhiều dẫn đến các xe chở rác chất đống gây mất mỹ quan rác được tập kết trung lên xe đẩy chuyển đến điểm tập kết rác.

Hình 8. Rác thải được vận chuyển bằng xe đẩy đến điểm tập kết [15].

+ Thực tế hiện nay cho thấy các điểm tập kết rác lại chủ yếu tập kết trước cổng các công trình công cộng, bốc mùi hôi thối gây mất vệ sinh và mỹ quan đô thị.

Hình 9. Sơ đồ vị trí các điểm tập kết rác tại quận 3 TP. Hồ Chí Minh [16].

+ Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị còn chưa cao nhiều tỉnh mới chỉ đạt từ 50-60%.

Hình 10. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom tại các đô thị [12].

+ Rác tại các điểm tập kết rác được cho vào máy ép để vận chuyển đến khu xử lý như vậy chất thải vô cơ, hữu cơ, … đều bị trộn lẫn dẫn đến việc phân loại rác không còn hiệu quả, gây thất thoát và tốn kém khi xử lý.

+ Công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt đã từng bước được xã hội hoá cho các công ty môi trường. Tuy nhiên sự tham gia của cộng đồng trong công tác này còn hạn chế.

– Xử lý, tái chế rác thải sinh hoạt

+ Hiện nay việc xử lý rác sinh hoạt tại hầu hết các đô thị của Việt Nam chủ yếu bằng phương pháp chôn lấp và đốt thủ cộng một lượng nhỏ khác được tái chế. Theo thống kê năm 2022 cả nước có 660 bãi chôn lấp, nhưng trong số đó chỉ có 120 bãi là hợp vệ sinh.

+ Theo ông Võ Tiến Dũng, Phó tổng giám đốc Công ty Cổ phần Halcom Việt Nam, chia sẻ 23 năm qua doanh nghiệp đã liên kết với công ty của Đức, Phần Lan, Nhật Bản, nhưng chưa thể tìm ra công nghệ tốt nhất cho vấn đề rác thải tại Việt Nam cho biết: “Rác thải ở Việt Nam khó xử lý hiệu quả do không phân loại, độ ẩm cao, trong khi đơn giá xử lý quá thấp. Tại các nước châu Âu, rác thải có độ ẩm 20%, còn ở Việt Nam lên đến 60-70%” [18].

+ Như vậy có thể thấy sự tham gia của cộng đồng trong việc phân loại rác tại nguồn là vô cùng quan trọng, làm cơ sở để xử lý rác bền vững hiệu quả sau này.

  1. Giải pháp tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh vì mục tiêu phát triển hạ tầng xanh bền vững

Nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư trong công tác quản lý, vận hành, xử lý rác thải rắn sinh hoạt.

– Tuyên truyền, phổ biến cho cộng đồng biết về pháp luật quy định về bảo vệ môi trường, các quy định về phân loại, lưu giữ chuyện giao chất thải sắn sinh hoạt của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định đến ngày 1/1/2025 sẽ phải thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt. Các quy định về xử phạt vi phạm đối trong lĩnh vực môi trường được quy định tại Nghị định số 45 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường.

– Xây dựng một ý thức hệ phân loại rác thải sinh hoạt. Ý thức hệ phân loại rác không dễ dãi chấp nhận sự đơn lẻ mà phải là tổng hòa ý thức, trở thành đặc trưng đời sống tinh thần của xã hội; là ý tưởng, nhận thức, giá trị và niềm tin chung nhất về quan điểm, tư tưởng được biểu hiện thông qua nhận thức, tư duy và hành động của con người mang theo cả tâm tư, tình cảm làm điều kiện nảy sinh những khát khao, kỳ vọng và mục tiêu hướng tới tương lai. Hướng trở thành một giá trị văn minh của Việt Nam và lưu triền đến mai sau.

Hướng dẫn phân loại rác tại nguồn và giảm thiểu rác thải tại nguồn áp dụng cho Việt Nam.

– Phân loại rác: Rác thải sinh hoạt của Việt Nam nên được chia thành 3 loại: Rác vô cơ; rác hữu cơ và rác tái chế. Thống nhất màu thùng rác theo 3 màu cho toàn khu vực. Tại các thùng phải được dán thông tin và ảnh minh hoạ mỗi loại rác. Thùng rác phải được vệ sinh sạch sẽ hàng ngày tránh gây mất mỹ quan và không tạo tâm lý sợ bẩn cho người dân khi sử dụng. Nên chọn mẫu thùng rác có thiết kế đẹp bắt mắt thể hiện điểm đặc trưng riêng của đô thị. Thùng rác phải được đặt vị trí nhiều người đi bộ qua lại, tại các chân chung cư, khu dân cư…

Hình 11. Minh hoạ thùng rác

– Giảm thiểu rác thải ngay tại nguồn:

+ Khuyến khích cộng đồng sử dụng các sản phẩn tái chế.

+ Hướng dẫn người dân sử dụng các biện pháp giảm thiểu rác thải sinh hoạt như sử dụng máy phân huỷ rác tại nhà; sử dụng phương pháp ủ rác thải hữu cơ hàng ngày thành, ủ compost hộ gia đình.

+ Giảm thiểu rác thải băng việc nâng giá phụ phí rác thải đối với các hộ có lượng phát sinh (Pay-As-You-Throw).

Giải pháp nâng cao sự tham của cộng đồng trong công tác thu gom rác thải sinh hoạt

– Xây dựng cơ chế chính sách nhằm khuyến khích các hiệp hội như hội phụ nữ, hội phụ huynh – học sinh, đoàn thể… Trên địa bàn tham gia vào công tác vận chuyển rác thải sinh hoạt đã được phân loại đến các điểm tập kết rác.

– Xây dựng cơ chế quản lý phát hiện và xử phạt các hành vi xả thải chất thải rắn sinh hoạt ra môi trường hay để rác không đúng nới quy định. Đồng thời khuyến khích, khen thưởng các nhân, tổ chức công đồng dân cư đã phát hiện các hành vi trên nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho cộng đồng dân cư.

– Khuyến khích các tổ chức, cá nhân cộng đồng dân cư ra quân thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn. Tuyên truyền các hình ảnh đẹp bảo vệ môi trường để nâng cao nhận thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường.

Hình 12. Cộng đồng dân cư tham gia dọn rác tại đầm nước mặn Sa Huỳnh [18].

– Ứng dụng công nghệ để tối ưu hóa tuyến thu gom và minh bạch hóa quy trình.

– Chất thải rắn sinh hoạt sau khi được phân loại phải được thu gom và vận chuyển riêng.

Giải pháp nâng cao sự tham của cộng đồng trong công tác xử lý, tái chế rác thải sinh hoạt.

– Từ giải pháp phân loại trên cộng đồng có thể tham gia vào công tác xử lý rác thải ngay tại nguồn.

– Đối với rác thải khác cần áp dụng cộng nghệ khoa học kỹ thuật để xử lý hiệu quả.

– Chính quyền địa phương cần tạo điều kiện phối hợp với các tổ chức, cá nhân nhằm thu hút đầu tư các dự án về môi trường trên địa bàn.

  1. Kết luận và kiến nghị

Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng, hạ tầng xanh là yếu tố cốt lõi giúp giảm thiểu ô nhiễm, điều hòa khí hậu, tăng cường sức khỏe cộng đồng và hướng đến phát triển bền vững. Việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt hiệu quả góp phần quan trọng vào việc vận hành hạ tầng xanh bền vững, giảm tải cho hệ thống xử lý rác và tăng khả năng tái tạo tài nguyên.

Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản trị đô thị mà còn đóng góp trực tiếp vào việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững.

Việc thúc đẩy người dân tham gia tích cực vào quản lý chất thải cần dựa trên các mô hình lý thuyết như:

– Tháp nhu cầu Maslow, nhu cầu về an toàn, sức khỏe và môi trường sạch là một phần trong nhu cầu cơ bản của con người, đặc biệt là cư dân đô thị.

– Mô hình 8 bậc thang tham gia của Arnstein cho thấy mức độ tham gia có thể dao động từ hình thức (cung cấp thông tin) đến thực chất (trao quyền kiểm soát). Việc đánh giá sự tham gia cần dựa vào mức độ cộng đồng được tư vấn, phản hồi và quyền lực thực tế trong hệ thống quản lý chất thải.

– Thuyết hành vi hợp lý (Theory of Reasoned Action – Fishbein & Ajzen), nhấn mạnh mối quan hệ giữa niềm tin, thái độ và hành vi;

– Mô hình 3E: Giáo dục (Education), Tham gia (Engagement), Trao quyền (Empowerment), giúp tăng cường tính chủ động và ý thức trách nhiệm của người dân.

– Từ đó cần thiết kế các chương trình truyền thông, đào tạo phù hợp để chuyển hóa nhận thức thành hành động thực tiễn.

Cần thiết lập các mô hình hợp tác công – tư – cộng đồng (Public – Private – People Partnership – PPPP), nơi doanh nghiệp, chính quyền và người dân cùng tham gia vào các hoạt động thu gom, phân loại và giám sát chất thải. Đồng thời, cần thiết lập các tổ nhóm giám sát cộng đồng ở tổ dân phố để đảm bảo minh bạch, công bằng và hiệu quả trong quản lý chất thải.

Trong thời đại chuyển đổi số, việc ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong theo dõi, phân tích và phản hồi về rác thải là rất cần thiết. Cần phát triển các ứng dụng giúp giám sát lượng rác từng hộ gia đình, định vị điểm thu gom thông minh, báo cáo vi phạm môi trường… nhằm tăng cường tính minh bạch và hiệu quả quản lý.

Sự tham gia của cộng đồng là yếu tố then chốt để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng hạ tầng xanh bền vững. Cần có chiến lược tổng thể từ tuyên truyền, giáo dục, chính sách pháp lý đến cơ chế phối hợp và ứng dụng công nghệ để nâng cao nhận thức, hành vi và trách nhiệm của người dân. Chỉ khi cộng đồng thực sự trở thành chủ thể quản lý, quá trình đô thị hóa mới đi đôi với phát triển xanh, bền vững và nhân văn./.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững”

 

Đăng ký nhận tư vấn