Phục Hồi Dòng Chảy Sinh Thái Các Sông Thoát Nước Nội Đô Góp Phần Phát Triển Bền Vững Thành Phố Hà Nội

GS.TS. Trần Đức Hạ, TS. Trần Đức Minh Hải – Đại học Xây dựng HN

Lê Việt Hưng – Công ty CDC (Bộ Xây dựng)

 

  1. GIỚI THIỆU CHUNG

Các sông nội đô là sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Lừ và sông Sét gắn liền với lịch sử phát triển trên 1000 năm của Hà Nội, có ý nghĩa lớn về văn hóa, lịch sử và tâm linh của Thủ đô. Các sông này tạo nên khung sinh thái trung tâm thành phố, lại có vai trò là địa điểm vui chơi giải trí, sinh hoạt văn hóa, tâm linh của nhân dân Hà Nội và du khách.

Hình 1. Hệ thống sông nội đô vùng trung tâm thành phố Hà Nội hiện nay

Tuy nhiên sự phát triển đô thị đã làm cho nước bị ô nhiễm nặng, khả năng tiêu thoát nước mưa của các sông giảm sút,… Nguồn bổ cập  nước chính cho sông vẫn là nước thải về mùa khô và nước mưa về mùa mưa. Do dòng chảy nhỏ và tiếp nhận tải lượng lớn các chất ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng,… nên chất lượng nước sông ngày càng giảm. Các nghiên cứu của Trung tâm Quan trắc môi trường Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, Viện Khoa học và Kỹ thuật môi trường, Công ty TNHH Thoát nước Hà Nội,… cho thấy toàn bộ dòng chảy sông từ Bưởi đến Thanh Liệt trong trạng thái ô nhiễm nặng, oxy hòa tan hầu như không có, nước sông màu đen và bốc mùi nặng về mùa khô [1]. Ngoài ra khả năng điều tiết và vận chuyển nước sông cũng bị hạn chế do bùn cặn lắng đọng và chướng ngại vật trên sông. Tình trạng suy thoái và ô nhiễm nước các sông Kim Ngưu, Sét và Lừ cũng tương tự như sông Tô Lịch.

Hình 2. Sông Tô Lịch – từ dòng sông sống thành dòng sông chết [2]

Quản lý môi trường cũng như quản lý tài nguyên nước trên lưu vực này (trong đó có quản lý vận hành các công trình đập thanh Liệt, trạm bơm Yên Sở, các đập điều tiết trên các sông,…) cần phải quản lý thống nhất trên cơ sở sự phục hồi lại dòng chảy của sông Tô Lịch và các sông nội đô khác với chất lượng nước được cải thiện. Các sông hồ thoát nước nội đô phải tạo nên  được hệ thống hạ tầng thoát nước xanh cho thành phố. Sông phải đảm bảo dòng chảy tự nhiên về mùa khô; thể tích chứa (điều tiết) nước lớn để tiêu thoát nước mưa; và có khả năng tự làm sạch cao để chất lượng nước đáp ứng quy chuẩn môi trường cũng như tạo điều kiện phát triển các công trình văn hóa, vui chơi, giải trí trên sông.

  1. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN ĐỂ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHỤC HỒI DÒNG CHẢY SINH THÁI CÁC SÔNG NỘI ĐÔ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét và sông Kim Ngưu với tổng chiều dài 37,9  km tạo thành một hệ thống trong lưu vực sông Tô Lịch 77,5 km2. Hiện nay, trong tổng số 4 sông thuộc lưu vực, sông Tô Lịch là sông chủ đạo lớn nhất với chiều dài 13,4 km, có điểm đầu từ hạ lưu cống qua đường Hoàng Quốc Việt, điểm cuối là ngã ba Sông Nhuệ; chảy qua địa phận các quận Cầu Giấy, Ba Đình, Đống Đa, Thanh Xuân và huyện Thanh Trì. Là sông chính trong hệ thống các sông thoát nước khu vực trung tâm thành phố, sông Tô lịch tiếp nhận nước mưa và nước thải của lưu vực diện tích 77,5 km2 với lưu lượng  khoảng 30m3/s, để vận chuyển qua 2 hướng thoát là ra sông Nhuệ (khi đập Thanh Liệt mở) và ra sông Hồng (qua điểm hạ lưu sông Kim Ngưu và Trạm bơm Yên Sở).

Do tải lượng hữu cơ lớn xả vào sông,  từ 8,2 đến 15 kg BOD/ha.ngày, nên mặc dù các sông thoát nước nội đô Hà Nội đều đã được nạo vét và cải tạo theo các gói thầu các dự án thoát nước, nhưng toàn bộ dòng chảy sông Tô Lịch từ cống Bưởi đến cống Thanh Liệt trong trạng thái ô nhiễm nặng polysaprobe và α-mezosaprobe [1,3].  Ngoài ra khả năng điều tiết và vận chuyển nước song cũng bị hạn chế do bùn cặn lắng đọng và chướng ngại vật trên sông. Nguy cơ tái ô nhiễm sông sau mùa mưa và sau mỗi lần nạo vét bùn cũng rất cao do dòng chảy chậm và nước thải trong sông không được xử lý và úng ngập trên lưu vực sông do năng lực thoát nước của các công trình tiêu thoát nước mưa hạn chế.

Như vậy, để đề xuất được các giải pháp phục hồi dòng chảy sinh thái các sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ và Sét trong khu vực trung tâm thành phố Hà Nội cần dựa trên các cơ sở khoa học và thực tiễn như sau.

a. Đảm bảo dòng chảy môi trường các sông nội đô thành phố Hà Nội.

Dòng chảy môi trường (Environmental Flows)  hay là dòng chảy sinh thái, là dòng chảy có đủ nước trong sông và chế độ nước này được quản lí nhằm bảo đảm các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường [4]. Theo Khoản 18 Điều 2 Luật Tài nguyên nước 2023, dòng chảy tối thiểu là dòng chảy ở mức thấp nhất cần thiết để duy trì dòng sông, suối hoặc đoạn sông, suối nhằm bảo đảm sự phát triển bình thường của hệ sinh thái thủy sinh và bảo đảm mức tối thiểu cho hoạt động khai thác, sử dụng nước [5]. Như vậy, dòng chảy tối thiểu ở mức nhỏ nhất nhưng vẫn đảm bảo dòng chảy môi trường. Để phục hồi dòng chảy cũng như chất lượng môi trường nước sông, cần thiết phải bảo đảm dòng chảy tối thiểu (vận tốc dòng chảy phù hợp với tiết diện và kết cấu bờ sông) các sông.

b. Đảm bảo sông hồ nội đô tạo thành khung sinh thái khu vực trung tâm thành phố Hà Nội.

  • Hệ thống sông hồ Hà Nội. Sông hồ Hà Nội có vai trò tiêu thoát nước mưa (vận chuyển và điều tiết), tạo cảnh quan và điều hòa vi khí hậu khu vực,… vì vậy chúng tạo thành khung sinh thái đô thị. Các sông và các hồ nội đô gắn với nhau tạo thành hệ thống để đảm bảo chức năng tổng hợp của nguồn tài nguyên nước mặt đô thị (cung cấp nước tưới cây rửa đường, chữa cháy, điều hòa vi khí hậu, bổ cập nước ngầm,…).
  • Khả năng phối hợp bổ cập nước sạch của các sông hồ nội đô. Các sông hồ nội đô có thể bổ cập nước sạch cho nhau như hồ Tây với sông Tô Lịch, hồ Bảy Mẫu với sông Sét, hồ Định Công, hồ Xã Đàn, hồ Ba Mẫu,… với sông Lừ, hồ Yên Sở với sông Kim Ngưu,… Bổ cập nước sạch cho sông cũng là tăng cường quá trình tự làm sạch cho các hồ. Các hồ cũng có vai trò tiếp nước sạch cho sông,… Cách tiếp cận này đã được đề cập đến trong nhiều Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội, Quy hoạch thoát nước Hà Nội,… Hiện nay hầu hết các hồ nội đô nêu trên đều đã được tách toàn bộ hoặc phần lớn nước thải, chất lượng nước nhiều hồ cơ bản đảm bảo mức B của QCVN 08:2023/BTNMT.

c. Dự báo chất lượng nước sông nội đô theo các nội dung và điều kiện thoát nước trong Quy hoạch hệ thống thoát nước thành phố Hà Nội

Các mô hình chất lượng nước là công cụ hỗ trợ mạnh cho việc quản lý nguồn nước và ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Do đó, ứng dụng các mô hình chất lượng nước để kiểm soát ô nhiễm nước sông nội đô là phù hợp. Sông Tô Lịch là sông thoát nước chính trong hệ thống sông nội đô thành phố Hà Nội. Trong các nghiên cứu của Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, mô hình chất lượng nước Qual 2K được áp dụng để tính toán và dự báo chất lượng nước sông Tô Lịch theo các kịch bản thu gom, XLNT trên lưu vực và bổ cập nước sạch pha loãng với nước sông [6].

Theo Quy hoạch thoát nước Hà Nội đã được phê duyệt, nước thải các lưu vực S2 và S3 thuộc sông Tô Lịch sẽ được thu gom về  nhà máy XLNT Yên Xá (công suất 270.000 m3/ngày) và nhà máy XLNT Phú Đô (công suất 84.000 m3/ngày) [7]. Nước thải sau khi xử lý sẽ được xem xét xả vào sông Tô Lịch để bổ cập nước cho sông. Ngoài ra, liên quan đến lưu vực sông Tô Lịch, còn có nhà máy XLNT Hồ Tây, công suất giai đoạn 1 là 15000 m3/ngày,  đi vào vận hành năm 2014 thu gom và xử lý một phần diện tích quận Tây Hồ là 180 ha. Giai đoạn 2 đến năm 2030 công suất của nhà máy sẽ đạt tới 30000 m3/ngày với mức độ xử lý loại A theo QCVN 40:2011/BTNMT. Mặt khác, cũng theo Quy hoạch thoát nước Hà Nội, một trạm bơm nước sông công suất Q=5 m3/s sẽ lấy nước sông Hồng (từ cống Liên Mạc trên sông Nhuệ) về pha loãng nước thải và làm sạch sông Tô Lịch về mùa khô [7].

Như vậy, trên sông Tô Lịch sẽ có các nguồn bổ cập nước sau đây:

  • Nguồn 1: Nước sông Hồng tiếp cho sông Tô Lịch tại vị trí đường Hoàng Quốc Việt, lưu lượng 5 m3/s:
  • Nguồn 2: Nước thải sau xử lý nhà máy XLNT Hồ Tây công suất Q=30.000 m3/ngày, xả vào sông Tô Lịch tại vị trí đường Hoàng Quốc Việt;
  • Nguồn 3: Nước thải sau xử lý nhà máy XLNT Phú Đô thuộc lưu vực S3 dự kiến xả khoảng 30.000 m3/ngày (trên tổng số 84.000 m3/ngày) vào sông Tô Lịch tại vị trí Cầu Giấy;
  • Nguồn 3: Nước thải sau xử lý nhà máy XLNT Yên Xá lưu lượng trung bình về mùa khô 270.000 m3/ngày xả vào sông Tô Lịch tại vị trí Cầu Lũ.
  • Nguồn 4: Nước thải dọc sông Tô Lịch không thu gom được vào hệ thống thoát nước tập trung khoảng 10.000 m3/ngày được xử lý phân tán đạt mức A của QCVN 14:2008/BTNMT để xả vào sông.

Thông số lựa chọn để đánh giá là hàm lượng chất hữu cơ dễ oxy hóa sinh hóa tính theo BOD. Sau khi nhập số liệu và chạy mô hình tính toán cho từng kịch bản (KB), thu được kết quả là các biểu đồ vận tốc dòng chảy và nồng độ chất hữu cơ phân hủy nhanh BODf (tương đương BOD5) theo chiều dài sông. Có 4 kịch bản với các nội dung như sau:

Kịch bản 1: Nước thải tất cả các tuyến cống dọc hai bờ sông Tô Lịch không được thu gom và xử lý như hiện nay. Ước tính  hàng ngày có khoảng 300.000 m3 nước thải chưa qua xử lý thải trực tiếp ra sông Tô Lịch, bên cạnh đó còn có khoảng 55.000 m3 từ sông Lừ đoạn Cống Dậu và 60.000 m3 từ sông Kim Ngưu đoạn Cầu Tó bổ cập vào.

Kịch bản 2: Theo dự án tiếp nước cho sông Tô Lịch, một trạm bơm nước sông công suất Q = 5 m3/s sẽ bơm nước sông Hồng từ Liên Mạc về pha loãng vào làm sạch sông, tuy nhiên tình trạng thu gom và XLNT vẫn theo như KB1.

Kịch bản 3: Theo Quy hoạch thoát nước Hà Nội, các nhà máy XLNT, đặc biệt là hệ thống XLNT Yên Xá, có hệ thống cống gom chạy dọc sông Tô Lịch và sông Lừ, và xử lý đạt mức B theo QCTĐHN 02:2014/BTNMT. Tuy nhiên nước thải phân tán lưu lượng nhỏ dọc sông, ước tính khoảng 10.000 m3/ngày còn chưa được thu gom xử lý.

Kịch bản 4: Tất cả nước thải trong lưu vực (xả thải tập trung và phân tán ra sông Lừ và sông Tô Lịch) đều được thu gom và xử lý đạt mức B theo QCTĐHN 02:2014/BTNMT [3,4], trong đó liên quan đến chế độ oxy thì  BOD5 phải ≤20 mg/L. Sông Tô Lịch được bổ cập nước sông Hồng Q=5m3/s vào mùa khô.

Kết quả tính toán dự báo trạng thái chất lượng nước sông theo kịch bản 4 (KB4), kịch bản khả thi và tốt nhất,  được thể hiện trên các Hình 3Hình 4 [6,8].

Các kết quả tính toán dự báo theo KB4 cho thấy:

– Do vẫn được bơm nước từ sông Hồng (5m3/s) nên vận tốc gần như không thay đổi so với KB2 và KB3 (0,3-0,7) m/s.

– Hàm lượng BOD5 nằm trong khoảng 5 – 18 mg/L. Hàm lượng BOD5 đoạn dọc sông đã đạt mức B1 – QCVN 08-MT:2015/BTNMT. Tuy nhiên cuối đoạn có nước từ sông Kim Ngưu chảy vào nên hàm lượng BOD lại tăng lên vượt mức B1.

Như vậy khi toàn bộ nước thải lưu vực sông Tô Lịch được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường (tổng lưu lượng khoảng 340.000 m3/ngày)  kết hợp với nước sạch bổ cập từ sông Hồng và hồ Tây tại điểm Hoàng Quốc Việt, với khả năng tự làm sạch của sông, nước sông Tô Lịch sẽ duy trì phần lớn ở mức B QCVN 08-MT:2015/BTNMT (trước đây) hoặc mức B bảng 2 QCVN 08:2023/BTNMT (hiện hành).

Với kết quả tính toán dự báo chất lượng nước sông theo các KB nêu trên, trong báo cáo đề tài khoa học công nghệ  01C-09/01-2016-3 các giải pháp kỹ thuật được tổng hợp để phục hồi dòng chảy sinh thái sông Tô Lịch được đề xuất dựa trên tính toán dự báo theo KB4 như trên Hình 5 [8].

Hình 5. Sơ đồ nguyên tắc quy trình phục hồi dòng chảy sông Tô Lịch

3. CÁC GIẢI PHÁP TỔNG HỢP PHỤC HỒI CÁC SÔNG NỘI ĐÔ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

a. Tiến trình phục hồi dòng chảy các sông.

Dựa vào các Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, Quy hoạch xây dựng chung, Quy hoạch thoát nước,… để xây dựng các kế hoạch phục hồi dòng chảy các sông nội đô cho hợp lý. Sông Tô Lịch đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các sông nội đô thành phố Hà Nội và quan hệ mật thiết về mặt thủy lực, thủy văn với sông Nhuệ và hồ Tây nên ưu tiên số một là phục hồi dòng chảy cho sông Tô Lịch. Các tiến trình tiếp theo là sông Lừ, sông Kim Ngưu và sông Sét. Hiện nay Hà Nội mới chỉ xây dựng Dự án bổ cập nước sông Hồng cho sông Tô Lịch. Trên cơ sở nguồn lực (trong đó có nguồn kinh phí) và điều kiện triển khai mà có thể thực hiện dự án phục hồi dòng chảy các sông theo tuần tự ưu tiên như trên.

b. Quy trình phục hồi dòng chảy các sông nội đô. Các bước phục hồi dòng chảy sông nội đô như sau [9]:

Tách, thu gom và xử lý các nguồn nước thải vào sông. Thu gom và xử lý nước thải (XLNT), kể cả nước thải công trình thoát nước tập trung và phân tán, đảm bảo quy chuẩn môi trường trước khi xả vào sông. Trong nội đô thành phố Hà Nội hiện nay có 3 nhà máy XLNT tập trung đang hoạt động là nhà máy Yên Sở (công suất 200.000 m3/ngày, xả nước thải sau xử lý vào sông Kim Ngưu), nhà máy Kim Liên (công suất 3600 m3/ngày xả nước thải sau xử lý vào sông Lừ), nhà máy Hồ Bảy Mẫu (công suất 13.300 m3/ngày xả nước thải sau xử lý vào hồ Bảy Mẫu và sau đó vào sông Sét). Nhà máy Yên Xá xử lý nước thải cho lưu vực S2, công suất 270.000 m3/ngày đang được vận hành thử nghiệm, nước thải sau xử lý vào hạ lưu sông Tô Lịch. Các nguồn nước thải phân tán cũng được thu gom xử lý tại chỗ với các trạm XLNT công suất từ 20 đến 100 m3/ngày, đảm bảo quy chuẩn môi trường trước khi xả vào nguồn tiếp nhận là các sông nội đô.

Xử lý ô nhiễm tồn lưu (bùn thải, rác thải,..) trong sông. Sau khi nước thải được tách ra khỏi các sông nội đô để đưa về các nhà máy/ trạm XLNT, cần tiến hành dọn rác thải,  nạo vét bùn cặn tồn lưu,… trong sông. Các biện pháp sục ozon, cấp khí bọt nano (nano bioreactor),… có thể ứng dụng để xử lý bùn cặn lắng đọng trong sông.

và cải tạo các kết cấu bờ sông. Các sông nội đô trung tâm đã được cải tạo, nạo vét và kè bờ trong giai đoạn 1 từ năm 2001 đến năm 2005 của dự án Thoát nước Hà Nội. Tuy nhiên hiện nay các bờ sông bị sạt lở, hư hỏng nhiều. Vì vậy để ổn định dòng chảy các sông nội đô cần thiết phải sửa chữa các bờ kè hư hỏng hoặc xây dựng, tôn tạo lại phù hợp với đặc điểm tự nhiên, điều kiện địa chất công trình và cảnh quan khu vực.

Bổ cập nước sạch đảm bảo dòng chảy tối thiểu về mùa khô cho sông. Về mùa khô khi nước thải được thu gom về các nhà máy/ trạm XLNT thì cần thiết phải bổ cập nước sạch để phục hồi dòng chảy cho sông đồng thời cung cấp nước qua sông Nhuệ cho khu vực nông nghiệp phía Nam thành phố. Nguồn bổ cập nước sạch chính là từ sông Hồng, theo tính toán trong Quy hoạch Thoát nước Hà Nội cũng như các nghiên cứu liên quan, với lưu lượng từ 5,0-5,5 m3/s trực tiếp vào sông Tô Lịch. Nguồn nước sông Hồng có thể kết hợp bổ cập cho hồ Tây để đảm bảo mực nước cảnh quan trong hồ, sau đấy qua các cửa phai để đưa nước hồ về sông Tô Lịch. Nước sạch từ hạ lưu sông Tô Lịch, các hồ Bảy Mẫu, hồ Yên Sở, hồ Linh Đàm,…  cũng có thể là nguồn bổ cập lại cho các sông Lừ, sông Sét và sông Kim Ngưu về mùa khô. Như vậy nhờ sự bổ cập và tuần hoàn nước sạch này, các sông hồ nội đô vùng trung tâm thành phố sẽ luôn ở trạng thái thủy vực động.

Tôn tạo cảnh quan, kiến trúc ven bờ và trên mặt nước sông. Sau khi dòng chảy các sông nội đô được phục hồi, cần xây dựng các công trình kiến trúc cảnh quan, vui chơi giải trí trên bờ và trên mặt nước sông. Đó là các bè thủy sinh kết hợp với guồng quay, vòi phun nước,… tạo mảng xanh, cảnh quan và làm giàu oxy cho nước sông, là các vườn hoa, công viên nhỏ  và dãi cây xanh ven sông,… Các công trình này vừa để phát triển dịch vụ văn hóa, tâm linh,.. kết hợp với tăng cường khả năng tự làm sạch nước sông, đảm bảo ổn định hệ sinh thái sông và cải tạo điều kiện vi khí hậu khu vực.

Trên cơ sở các phân tích và đánh giá ở trên, kiến nghị giải pháp kỹ thuật tổng hợp để phục hồi dòng chảy môi trường các sông nội đô thành phố Hà Nội như sau [9, 10, 11]:

Xây dựng các tuyến tách và thu gom nước thải từ hệ thống thoát nước chung về các nhà máy XLNT tập trung (hoàn thành gói thầu số 2, khẩn trương thực hiện gói thầu số 3 và số 4 của Dự án hệ thống XLNT Yên Xá; triển khai dự án thu gom nước thải đang xả vào sông Tô Lịch của một phần lưu vực S3 về nhà máy XLNT Hồ Tây, dự án tách và thu gom nước thải lưu vực S1 về nhà máy XLNT Yên Sở với 2 cống bao chính dọc sông Kim Ngưu từ Trần Khát Chân và dọc sông Sét từ sau cống Nam Khang; và thu gom, xử lý các nguồn nước thải phi tập trung dọc các sông, đảm bảo quy chuẩn môi trường trước khi xả vào sông [1].

Nạo vét, xử lý bùn tồn đọng trong sông; kè lại bờ sông để đảm bảo cảnh quan, khả năng thoát nước tăng và kết cấu ổn định.

Bảng 1. Dự tính cân bằng nước các sông nội đô trung tâm thành phố Hà Nội [9]

Nguồn  và vị trí bổ cập Lưu lượng, m3/s, các sông
Tô Lịch Lừ Sét Kim Ngưu
TB Sông Hồng,  tại Hoàng Quốc Việt 4
Hồ Tây, tại Hoàng Quốc Việt 1
Nhà máy XLNT Hồ Tây, tại Hoàng Quốc Việt 0,35
Trạm bơm Thanh Liệt, Cầu Mới 1,0
Sông Lừ, tại điểm hợp lưu 1,09
Nhà máy XLNT Yên Xá, sau điểm hợp lưu s. Lừ 3,125
Nhà máy XLNT hồ Bảy Mẫu, qua cống Trắng 0,05
Nhà máy XLNT Kim Liên, điểm Đông Tác 0,04
Trạm bơm Thanh Liệt, đường Trường Chinh 2
Nhà máy XLNT hồ Bảy Mẫu, qua Đại La 0,1
Sông Lừ, trước cầu Khỉ 1,0
Trạm bơm hồ Yên Sở, đầu sông 3
Nhà máy XLNT Yên Sở, sau Đền Lừ 2,31
Lưu lượng nước sông tại hạ lưu 10,565 1,09 1,1 5,31

Bổ cập nước sạch cho các sông. Dự tính dòng chảy tối thiểu trong các sông (tính đến hạ lưu) là: sông Tô Lịch (>10 m3/s), sông Lừ (1,8 m3/s), sông Sét (1,4 m3/s) và sông Kim Ngưu (5,3 m3/s). Dự tính nguồn bổ cập nước cho từng sông được nêu trong Bảng 1 và sơ đồ bổ cập trên Hình 6.

Hình 6. Sơ đồ dự tính bổ cập nước cho các sông nội đô thành phố Hà Nội

Ưu tiên mang tính khẩn cấp là bổ cập nước sạch cho sông Tô Lịch lưu lượng tối thiểu 5 m3/s với việc xây dựng trạm bơm nước sông Hồng tại cầu Nhật Tân công suất ≥ 5 m3/s và tuyến đường ống HDPE D1500 dẫn nước về điểm đầu sông Tô Lịch (khoảng 4 m3/s) và  bổ cập cho hồ Tây (khoảng 1 m3/s) bằng giải pháp cấp nước phân tán để không sốc sinh thái. Sông Lừ được bổ cập nước sạch từ trạm bơm nước từ hạ lưu sông Tô Lịch  công suất 3 m3/s (trước đập Thanh Liệt và sau điểm tiếp nhận nước thải sau xử lý của nhà máy XLNT Yên Xá) về đường Trường Chinh. Sông Kim Ngưu được bổ cập nước sạch từ trạm bơm nước hồ Yên Sở công suất 3 m3/s (nguồn tiếp nhận nước thải của nhà máy XLNT Yên Sở) về tại điểm thượng lưu sông (đầu nguồn sau giếng CSO tách nước thải lưu vực Lò Đúc về nhà máy XLNT Yên Sở). Sông Sét được bổ cập nước hồ Bảy Mẫu (nguồn từ trạm XLNT hồ Bảy Mẫu sau xử lý) tại điểm đầu sông sau đường Đại La và một phần nước sông Lừ chuyển qua theo đoạn mương nối giữa hai sông.

Để đảm bảo dòng chảy tối thiểu như dự tính, ngoài nước sông Hồng từ trạm bơm cầu Nhật Tân (công suất 5 m3/s) còn có nguồn nước thải sau xử lý đạt mức A QCTĐHN 02:2014/BTNMT  của các nhà máy XLNT Yên Xá (công suất 270.000 m3/ngày bổ cập cho sông Tô Lịch ở hạ lưu), nhà máy XLNT Hồ Tây (công suất dự kiến 30.000 m3/ngày bổ cập cho sông Tô Lịch ở thượng Lưu), nhà máy XLNT Yên Sở (công suất 200000 m3/ngày bổ cập ở thượng lưu sông Kim Ngưu và thượng lưu sông Sét), nhà máy XLNT Hồ Bảy Mẫu (công suất 13.300 m3/ngày, bổ cập cho thượng lưu sông Sét qua hồ Bảy Mẫu và thượng lưu sông Lừ qua hồ Ba Mẫu) và nhà máy XLNT Kim Liên (công suất 3.600 m3/ngày bổ cập cho sông Lừ).

Hình 7. Phương án hướng tuyến dẫn nước sông Hồng để bổ cập và vị trí các đập dâng theo đề xuất của Sở Xây dựng Hà Nội [12]

Trong tương lai khi trạm bơm hai chiều tại Sông Nhuệ (vị trí Liên Mạc) được lắp đặt với công suất cấp nước từ sông Hồng 70 m3/s và tiêu ra sông Hồng 170 m3/s, phương án bổ cập nước để phục hồi dòng chảy môi trường cho các sông nội đô thành phố Hà Nội sẽ được đảm bảo hơn.

Việc điều tiết lưu lượng dòng chảy về mùa khô giữa các sông nội đô lưu vực sông Tô Lịch nhờ các cống điều tiết, cửa phai,.. trên hệ thống thoát nước mưa hiện nay của thành phố Hà Nội.

Các sông nội đô vùng trung tâm thành phố Hà Nội có giá trị lịch sử, văn hóa, tâm linh và sinh thái rất lớn. Các sông này cũng đóng góp rất nhiều cho sự phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề án theo các bước nêu trên, các nội dung về giáo dục, thông tin truyền thông đối với cộng đồng, những người hưởng thụ môi trường và các dịch vụ văn hóa, tâm linh, giải trí,… trên sông, phải được triển khai đồng thời và hài hòa. Nâng cao nhận thức và hiểu biết của cộng đồng về bảo vệ môi trường nước, làm cho ý thức bảo vệ môi trường trở thành thói quen, đi sâu vào nếp sống của mọi tầng lớp xã hội là nội dung cơ bản khi thực hiện các dự án khôi phục môi trường nước sông hồ nội đô. Cần phải phát huy giá trị văn hóa và con người Hà Nội, khơi dậy ý chí, niềm tự hào, khát vọng phát triển của nhân dân với hình thức xây dựng các trung tâm giáo dục và triển lãm môi trường, giới thiệu và cung cấp thông tin về giá trị văn hóa, lịch sử và kinh tế xã hội các sông hồ, các giải pháp bảo vệ môi trường nước sông hồ, xử lý ô nhiễm nước,… tại các nhà máy XLNT Yên Xá, nhà máy XLNT Yên Sở, công viên Thống Nhất, công viên Thủ Lệ,… như trong Đề án phục hồi chất lượng môi trường nước các sông nội đô mà Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đề xuất [13].

  1. KẾT LUẬN

Các sông nội đô gắn liền với lịch sử phát triển trên 1000 năm của thành phố Hà Nội. Sông là khung sinh thái của trung tâm thành phố, đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong hệ thống hạ tầng xanh của thành phố. Tuy nhiên sự phát triển đô thị đã làm cho nước sông bị ô nhiễm nặng, khả năng tiêu thoát nước mưa của sông giảm sút,… Vì vậy cần phải đảm bảo cho sông: dòng chảy tự nhiên về mùa khô;  thể tích chứa (điều tiết) nước lớn để tiêu thoát nước mưa; và có khả năng tự làm sạch cao để chất lượng nước đáp ứng quy chuẩn môi trường cũng như tạo điều kiện phát triển các công trình văn hóa, giải trí trên sông.

Các bước phục hồi dòng chảy các sông Tô Lịch và các sông nội đô khác như sau: 1). thu gom và XLNT (kể cả nước thải công trình thoát nước tập trung và phân tán) đảm bảo quy chuẩn môi trường trước khi xả vào sông; 2). xử lý ô nhiễm tồn lưu trong sông (nạo vét và xử lý bùn ô nhiễm); 3). kè và cải tạo bờ đảm bảo ổn định cho sông; 4). bổ cập nước sạch cho sông mùa khô theo yêu cầu dòng chảy môi trường (sinh thái) đồng thời cung cấp nước qua sông Nhuệ cho nông nghiệp khu vực phía Nam thành phố; và 4). bố trí các công trình vui chơi giải trí kết hợp cảnh quan với tăng cường tự làm sạch nước sông.

Tài nguyên nước thành phố Hà Nội nói chung, lưu vực 77,5 km2 sông Tô Lịch nói riêng, phải được quản lý tổng hợp: Đây là một quá trình đẩy mạnh phối hợp phát triển và quản lý nguồn nước, đất đai và tài nguyên liên quan, để tối đa hoá lợi ích kinh tế và phúc lợi xã hội  một cách công bằng mà không phương hại đến tính bền vững của các hệ sinh thái thiết yếu. Quản lý và phát triển nguồn nước phải dựa trên cách tiếp cận cùng tham gia của người hưởng thụ nguồn nước (cộng đồng), người lập kế hoạch (tư vấn) và quyết định chính sách (quản lý nhà nước) [14]. Các sông nội đô sau khi được phục hồi dòng chảy, sẽ đảm bảo được chức năng khung sinh thái chính của đô thị, là nơi vui chơi giải trí của nhân dân thủ đô và du khách, đồng thời cung cấp một phần nước tưới cho vùng nông nghiệp phía Nam thành phố.

Sau khi dòng chảy môi trường các sông nội đô được phục hồi, các giải pháp tạo cảnh quan vui chơi giải trí,… trên các sông cần thiết phải được triển khai để khai thác tiềm năng du lịch đồng thời tăng cường quá trình tự làm sạch, đảm bảo ổn định chất lượng nước sông. Để kiểm soát tình hình ô nhiễm cũng như đảm bảo dòng chảy môi trường, trong quá trình triển khai thực hiện các chương trình và dự án cũng như khi khai thác, vận hành các con sông này cần thiết thực hiện các chương trình quan trắc tài nguyên nước (chất lượng và lưu lượng) các con sông.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững”

 

 

Đăng ký nhận tư vấn