KS. Nguyễn Văn Nam
Giám đốc Trung tâm tư vấn Phát triển đô thị,
Viện NCĐT & PTHT
- KHÁI NIỆM CẤP NƯỚC XANH
Hạ tầng kỹ thuật đô thị bao gồm: Kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, cấp, thoát nước, cấp năng lượng, điện- chiếu sáng đô thị, thông tin liên lạc, chuẩn bị kỹ thuật, môi trường đô thị cây xanh, công viên, xử lý nước thải, chất thải rắn, nghĩa địa, nghĩa trang đô thị [1].
Nước sạch: là nước đã qua xử lý có chất lượng bảo đảm, đáp ứng yêu cầu sử dụng [2].
Hoạt động cấp nước: là các hoạt động có liên quan trong lĩnh vực sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch, bao gồm: quy hoạch, tư vấn thiết kế, đầu tư xây dựng, quản lý vận hành, bán buôn nước sạch, bán lẻ nước sạch và sử dụng nước [2].
Hệ thống cấp nước tập trung hoàn chỉnh: là một hệ thống bao gồm các công trình khai thác, xử lý nước, mạng lưới đường ống cung cấp nước sạch đến khách hàng sử dụng nước và các công trình phụ trợ có liên quan [2].
Mạng lưới cấp nước: là hệ thống đường ống truyền dẫn nước sạch từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, bao gồm mạng cấp I, mạng cấp II, mạng cấp III và các công trình phụ trợ có liên quan [2].
Hệ thống cấp nước: là tổ hợp những công trình có chức năng thu nước, xử lý nước, vận chuyển, điều hoà và phân phối nước [3].
Đô thị tăng trưởng xanh: là đô thị đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế thông qua các chính sách và hoạt động đô thị nhằm giảm những tác động có ảnh hưởng bất lợi đối với môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên [4].
Đô thị xanh: là đô thị được đầu tư xây dựng có quan tâm đến điều kiện sống tốt nhất cho mọi dân cư đô thị, giảm thiểu nhu cầu về năng lượng, ít ô nhiễm môi trường, đa dạng về sinh học đảm bảo kiến trúc cảnh quan đô thị có không gian xanh, công trình xanh, có hệ thống giao thông đạt tiêu chuẩn xanh, các khu công nghiệp xanh và môi trường đô thị đạt chất lượng xanh, đảm bảo cung cấp các điều kiện tốt nhất về kinh tế, xã hội, môi trường cho cư dân đô thị” [5].
Hạ tầng đô thị xanh là việc phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật (gồm giao thông, chiếu sáng, cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải…) và các công trình hạ tầng xã hội (gồm công viên, cây xanh…) trong đô thị theo hướng xanh, an toàn và bền vững [6].
Giao thông xanh: là các phương tiện giao thông hạn chế thải khí CO₂ và các loại khí thải độc hại khác ra môi trường. Việc người dân sử dụng xe đạp, xe máy điện, ô tô điện, xe buýt chạy bằng khí nén CNG, tàu điện… [7].
Đô thị bền vững: là sự kết hợp nhất giữa kinh tế – xã hội, môi trường, chính quyền, không gian cảnh quan, cơ sở hạ tầng của đô thị nhằm nâng cao chất lượng sống của thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến nhu cầu phát triển của thế hệ tương lai [8].
Nước ngầm là loại nước nằm bên dưới bề mặt đất trong các không gian rỗng của đất và trong các khe nứt của các thành tạo đá, và các không gian rỗng này có sự liên thông với nhau [9].
Nước xanh là nước được giữ trong đất và có sẵn cho cây trồng. Đây là nguồn tài nguyên nước ngọt lớn nhất nhưng chỉ có thể được sử dụng tại chỗ bởi thực vật [10].
Cấp nước xanh đô thị: là hoạt động sử dụng hệ thống nước ngầm để phục vụ cho công tác tưới cây đô thị (Tác giả).
- TỔNG QUAN VỀ CẤP NƯỚC XANH TẠI CÁC ĐÔ THỊ CỦA VIỆT NAM
Hiện nay nguồn nước ngầm đang bị sử dụng quá mức ở nhiều nơi, đặc biệt là những nơi có tốc độ đô thị hoá nhanh, tỷ lệ bê tông hoá nhiều dẫn đến lượng nước bổ sung cho các tầng chứa nước (thông qua mưa và tuyết) ít hơn so với lượng nước được khai thác. Việc sử dụng quá mức diễn ra liên tục cuối cùng khiến nguồn tài nguyên quý giá này trở nên cạn kiệt. Chính vì vậy nguồn nước xanh đang ngày càng khan hiếm tại các đô thị. Trên thực tế việc chăm sóc cây tại hầu hết các đô thị đang sử dụng nguồn nước mặt lấy từ các ao hồ, sông ngòi mà nguồn nước nay đang bị ô nhiễm do rác thải, nước thải sinh hoạt…
2.1. Thực trạng ô nhiễm nguồn nước tại các đô thị của Việt Nam
Sau công cuộc Đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn ở nhiều lĩnh vực. Theo thống kê của Cục Phát triển đô thị, tính đến ngày 14 tháng 3 năm 2025, tổng số đô thị cả nước là 916, bao gồm 2 đô thị loại đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 25 đô thị loại I, 38 đô thị loại II, 44 đô thị loại III, 101 đô thị loại IV và 706 đô thị loại V.. Tuy nhiên song song với quá trình đô thị hoá và phát triển đô thị ấy cũng đã tạo ra nhiều vấn đề bất cập đối với môi trường và hệ sinh thái.
Hình 2: Thực trạng ô nhiễm môi trường ở đô thị [12].
Môi trường nước của nước ta ngày càng bị ô nhiễm. Theo thống kê từ Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm nước ta có khoảng 9.000 người tử vong do dử dụng nguồn nước bị ô nhiễm. Trong đó hơn 25% được phát hiện là do ung thư mà nguyên nhân là do sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm. Hiện nay vẫn còn 20% hộ dân cả nước sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm từ ao, hồ, kênh, rạch để sinh hoạt [13].
Tại Hà Nội đa phần nước thải sinh hoạt không được xử lý mà xả thải trực tiếp ra sông đã đến nhiều con sông chết như hiện nay. Theo báo cáo từ Bộ tài nguyên và Môi trường, mỗi ngày thành phố Hà Nội thải ra ngoài môi trường khoảng 300.000 tấn nước thải. Bao gồm nhiều nguồn thải khác nhau nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước thải đô thị. Đặc biệt phần lớn lượng nước thải này chưa qua xử lý. Bởi vậy, hàm lượng chất độc hại, vi khuẩn cực kỳ cao. Cụ thể, lượng chất hữu cơ xả thẳng ra môi trường là 3600 tấn/năm. Lượng dầu mỡ là 317 tấn. Cùng hàng chục tấn kim loại nặng độc hại như chì, thủy ngân, sắt, asen [14].
Hình 3: Tình trạng xả thải nước thải sinh hoạt tại sông Tô Lịch [15].
Hiện nay tại hầu hết các đô thị vừa và nhỏ chưa có hệ thống xử lý nước thải dẫn đến tính trạng ô nhiễm nguồn nước. Ngoài nước thải tình trạng rác thải sinh hoạt cũng đang là nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm nguồn nước như hiện nay.
Hình 4: Ô nhiễm khiến nhiều sông chết mòn [16].
Chính vì về nguồn ngầm tại các đô thị ngày càng bị ô nhiễm và khan hiếm nguồn nước sạch. Trong nhưng năm về trước tác các khu vực nông thôn hay vùng ven đô, thậm chí tại các đô thị vừa và nhỏ tỷ lệ người dân sử dụng nguồn nước giếng khoan chiếm đại đa số. Tuy nhiên hiện nay nguồn nước này đang bị ô nhiễm tạo áp lực lớn cho hệ thống cấp nước sạch như hiện nay.
Hình 5: Sử dụng nước giếng bị ô nhiễm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người [17].
Từ những nguyên nhân trên cho thấy hiện nay nguồn nước xanh tại các đô thị đang ngày càng bị ô nhiễm và ngày càng khan hiếm.
2.2. Thực trạng cấp nước của Việt Nam
Tính đến cuối năm 2014 cả nước có gần 100 doanh nghiệp cấp nước đang quản lý trên 500 hệ thống cấp nước lớn, nhỏ tại các đô thị toàn quốc với tổng công suất cấp nước đạt 7,0 triệu m3/ ngày, so với năm 2011 tổng công suất đã tăng trên 800.000 m3/ngđ; tỷ lệ dân cư thành thị được cung cấp nước qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 80%, tăng 4% so với năm 2011; tỷ lệ thất thoát, thất thu bình quân khoảng 25,5% giảm 4,5% so với năm 2010 (30%); mức sử dụng nước sinh hoạt bình quân đạt 105 lít/ng.ngđ [18].
2.3. Cấp nước trong quy hoạch đô thị của Việt Nam hiện nay
Trong thời gian qua, nhiều đồ án Quy hoạch hệ thống cấp nước đô thị và cấp nước vùng tỉnh đã được thiết lập [8]:
– Quy hoạch cấp nước vùng tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương:
+ Các thành phố trực thuộc Trung ương và khoảng 24 tỉnh đã lập quy hoạch cấp nước vùng tỉnh (chủ yếu cho hệ thống đô thị và nông thôn phụ cận);
+ Các tỉnh còn lại lồng ghép quy hoạch cấp nước trong quy hoạch xây dựng. Nội dung quy hoạch cấp nước đã góp phần định hướng khai thác, sử dụng các nguồn nước bền vững và đầu tư các dự án cấp nước có hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt và phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
– Đối với các thành phố trực thuộc Trung ương, theo Luật Quy hoạch đô thị cần có Quy hoạch chuyên ngành về cấp nước riêng.
– Quy hoạch cấp nước thành phố Hà Nội:
+ Thủ tướng đã ra quyết định phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch cấp nước Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 554/QĐ-TTg ngày 06/4/2021. Do đầu tư nhà máy nước chậm so với quy hoạch và nhu cầu cấp nước của người dân ngày càng tăng, nên tình trạng thiếu nước tại thành phố Hà Nội khá trầm trọng, đặc biệt vào dịp nắng nóng.
Hình 7: Sơ đồ Quy hoạch nhà máy cấp nước thành phố Hà Nội đến năm 2020 [20].
Hình 8: Bản đồ Quy hoạch hệ thống cấp nước thành phố Hà Nội đến năm 2030 [21].
+ Việc đầu tư nâng công suất nhà máy nước Bắc Thăng Long lên 150.000 m3/ngđ và đưa vào sử dụng nhà máy nước sông Đuống công suất 150.000 m3/ngđ năm 2019, nâng tổng công suất cấp nước TP. Hà Nội khoảng 1.350.000 m3/ngđ, bước đầu khắc phục tình trạng thiếu nước các năm 2015-2018;
+ Việc Điều chỉnh Quy hoạch cấp nước Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và được Thủ tướng Chính phủ đã phê tại duyệt Quyết định số 554/QĐ-TTg ngày 06/04/2021 trong đó cũng đã bổ dung thêm nhà máy nước Xuân Mai công suất 300.000 m3/ngđ đến năm 2020.
– Quy hoạch cấp nước Thành phố Hồ Chí Minh:
+ Thành phố Hồ Chí Minh đã được Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch cấp nước đến năm 2025 tại Quyết định số 729/QĐ-TTg ngày 19/6/2012. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh đang rà soát lập nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch. Yêu cầu bảo đảm cấp nước an toàn đang được UBND Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm và tổ chức thực hiện;
+ Đơn vị cấp nước đề xuất một số yêu cầu cấp bách nhằm bảo đảm nguồn nước an toàn và đáp ứng yêu cầu cấp nước cho người dân bao gồm: bố trí một số bể chứa nước dự trữ lớn trong thành phố; một số tuyến ống truyền tải đường kính lớn (D2400mm); giải pháp dự trữ nước mưa và đường ống dẫn nước thô từ hồ Dầu Tiếng, Phước Hòa về cho thành phố; các đề xuất này chưa có trong quy hoạch cấp nước Thành phố Hồ Chí Minh.
– Quy hoạch cấp nước thành phố Hải Phòng:
Quy hoạch cấp nước thành phố Hải Phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt tại Quyết định số 487/QĐ-UBND ngày 05/3//2018 của UBND thành phố Hải Phòng. Trong đó, trọng tâm là quy hoạch cấp nước đô thị trung tâm với hệ thống 7 nhà máy nước được đầu tư xây mới hoặc nâng cấp gồm:
+ Nâng cấp nhà máy nước An Dương tại phường Trần Nguyên Hãn (quận Lê Chân) có công suất 200 nghìn m3/ngđ phục vụ cho khu vực đô thị vùng lõi.
+ Nâng cấp nhà máy nước Vật Cách tại xã Tân Tiến (huyện An Dương) có công suất 60 nghìn m3/ngđ, phục vụ quận Hồng Bàng mở rộng, quận mới An Dương và các khu công nghiệp: Nomura- Hải Phòng, Tràng Duệ.
+ Nâng cấp nhà máy nước Cầu Nguyệt ở xã Thái Sơn (huyện An Lão) công suất 120 nghìn m3/ngđ, phục vụ quận Kiến An và các khu vực lân cận như: huyện An Lão, khu công nghiệp Ngũ Phúc (trong quy hoạch) và bổ sung cấp nước cho khu vực nội thành trong trường hợp nhu cầu tăng đột biến.
+ Xây dựng mới 4 nhà máy nước gồm: Hưng Đạo (quận Dương Kinh), Kim Sơn (huyện An Dương), Ngũ Lão (huyện Thủy Nguyên), Đình Vũ (quận Hải An) có công suất từ 100 đến 200 nghìn m3/ngđ.
– Quy hoạch cấp nước thành phố Cần Thơ
Hình 9: Bản đồ định hướng cấp nước thành phố Cần Thơ đến năm 2020 [22].
Ngày 19/01/2015, UBND thành phố Cần Thơ ban hành Quyết định số 279/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch cấp nước thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Một số chỉ tiêu quan trọng liên quan đến Công ty CP Cấp nước Cần Thơ 2 được nêu trong Quyết định gồm có:
+ Mục tiêu tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch từ hệ thống cấp nước tập trung đến năm 2020 đạt 95% đối với khu vực đô thị Ninh Kiều, Bình Thủy và 80% đối với thị trấn ngoại thành; đến năm 2030 đạt 100% đối với khu vực đô thị Ninh Kiều, Bình Thủy và 90% đối với thị trấn ngoại thành.
+ Giảm tỷ lệ thất thoát nước đến năm 2020 xuống khoảng 18-20% và xuống khoảng 15% vào năm 2030.
+ Tiêu chuẩn cấp nước các quận Ninh Kiều, Bình Thủy đến năm 2020 đạt 150 lít/người-ngày đêm; đến năm 2030 đạt 180 lít/người-ngày đêm. Áp lực nước tối thiểu cao từ 10m trở lên so với mặt đất.
Hình 10: Hiện trạng mạng lưới cấp nước chính của thành phố Cần Thơ [23].
+ Nhu cầu sử dụng đất cho việc mở rộng Nhà máy nước Cần Thơ 2 là 03 ha.
+ Trong số các dự án được ưu tiên đầu tư giai đoạn 2015-2020 có dự án cải tạo, mở rộng, nâng công suất Nhà máy nước Cần Thơ 2 từ 52.500 lên 97.500 m3/ngày đêm.
– Quy hoạch cấp nước thành phố Đà Nẵng
Hiện này Đà Nẵng chưa Quy hoạch riêng về cấp nước đô thị. Quy hoạch cấp nước thành phố Đà Nẵng được lồng ghép trong Quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng.
Thủ tướng ra Quyết định số 359/QĐ-TTg ngày 15/3/2021 về việc Điều chỉnh quy hoạch chung Thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó có đề cập tới Quy hoạch cấp nước thành phố Đà Nẵng như sau:
+ Tổng nhu cầu sử dụng nước là 800.000 m3/ngày đêm. Nguồn nước từ chuỗi sông Yên – Cầu Đò; sông Quá Giáng; sông Cu Đê; suối Đá, suối Tình, suối Lương; hồ Hòa Trung và hồ chứa sông Bắc.
+ Các công trình cấp nước: Nâng cấp nhà máy nước Cầu Đỏ đạt công suất 390.000 m3/ngày đêm, nhà máy nước hồ Hòa Trung đạt công suất 20.000 m3/ngày đêm. Xây dựng mới nhà máy nước Hòa Liên, công suất 240.000 m3/ngày đêm, nhà máy nước sử dụng nguồn nước từ chuỗi sông Yên – Quá Giáng, công suất 120.000 m3/ngày đêm. Tiếp tục duy trì hoạt động nhà máy nước Sân bay, công suất 30.000 m3/ngày đêm và các nhà máy cấp nước nhỏ lẻ hiện có.
+ Các tuyến ống truyền tải: Tiếp tục xây dựng các tuyến ống truyền tải tại các khu vực. Bổ sung các tuyến ống truyền tải về khu vực phía Tây Nam Thành phố đảm bảo cấp nước theo định hướng phát triển đô thị trong tương lai.
+ Phát triển hệ thống quản lý nước thông minh.
+ Quy hoạch cấp nước các thành phố được điều chỉnh và phê duyệt năm 2017 và 2018;
+ Cả 03 thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ đều bị ảnh hưởng tác động biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn, các quy hoạch đều có giải pháp sử dụng nguồn nước phù hợp, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước trên địa bàn;
+ Riêng đối với thành phố Đà Nẵng, việc triển khai đầu tư Hòa Liên công suất 120.000 m3/ngđ và giải pháp nguồn nước thô chậm hơn so với quy hoạch; dẫn đến vào mùa khô năm 2019, khi bị xâm nhập mặn, thành phố đã thiếu nước trầm trọng.
– Tồn tại trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch tại các đô thị như sau:
Chất lượng quy hoạch kết cấu hạ tầng cấp nước còn thấp, quản lý đầu tư còn dàn trải do thiếu sự phối hợp của các cấp, các ngành, các địa phương trong quy hoạch kết cấu hạ tầng cấp nước mang tính liên vùng, liên tỉnh.
Các dự án đội vốn, chậm tiến độ hoặc chưa phát huy hiệu quả là do quy hoạch chưa đúng với nhu cầu, chuẩn bị đầu tư chưa tốt, thiếu vốn để tập trung đầu tư, biến động giá đầu vào, khảo sát thiết kế chưa tốt, năng lực một số chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn ở một số dự án còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu làm chậm tiến độ và thiếu hạ tầng cấp nước kết nối làm giảm hiệu quả của dự án.
Công tác dự báo còn bất cập, chưa chính xác, tầm nhìn quy hoạch cấp nước còn hạn chế, nhiều nơi vừa xây dựng xong phải tiếp tục nghiên cứu mở rộng. Bên cạnh đó, việc quản lý quy hoạch kết cấu hạ tầng cấp nước tại một số địa phương, khu vực chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ gây lãng phí trong đầu tư.
Hiện nay tại Việt Nam chưa có quy định cụ thể về quản lý quy hoạch cấp nước xanh. Vì khái niệm cấp nước xanh đang là khái niệm mới chưa từng suất hiện trong các nghiên cứu trước đây.
- 3. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CẤP NƯỚC XANH
3.1. Cơ sở lý luận về cấp nước xanh
Các lý luận về cấp nước xanh đang còn rất hạn chế và chưa có nghiên cứu chuyên xâu về cấp nước xanh.
World Soil Information (ISRIC) đã đề cập đến thí điểm về tín dụng nước xanh (GWC) [10]:
– Theo đó nước xanh được định hướng: Nước xanh là nước được giữ trong đất và có sẵn cho cây trồng. Đây là nguồn tài nguyên nước ngọt lớn nhất nhưng chỉ có thể được sử dụng tại chỗ bởi thực vật. Nước xanh được quản lý bởi nông dân, người trồng rừng và người sử dụng đồng cỏ hoặc đất chăn nuôi. Bluewater là nước ngầm và dòng chảy, hỗ trợ hệ sinh thái dưới nước và có thể được khai thác để sử dụng ở nơi khác: làm nước sinh hoạt và chăn nuôi, tưới tiêu, sử dụng công nghiệp và đô thị. Dòng chảy và tài nguyên nước xanh, cả về số lượng và chất lượng, được xác định chặt chẽ bởi hoạt động quản lý của người sử dụng đất ở thượng nguồn.
– Quản lý nước xanh bao gồm các biện pháp bảo tồn đất và nước hiệu quả do người sử dụng đất thực hiện. Những biện pháp thực hành này giải quyết vấn đề sử dụng tài nguyên nước bền vững tại một lưu vực hoặc lưu vực sông ngay tại nguồn. Quản lý nước xanh làm tăng khả năng thoát hơi nước hiệu quả, giảm bốc hơi bề mặt đất, kiểm soát dòng chảy, khuyến khích bổ sung nước ngầm và giảm lũ lụt. Nó liên kết nước rơi trên đất nhờ mưa và được sử dụng ở đó với tài nguyên nước sông, hồ và nước ngầm: quản lý nước xanh nhằm mục đích tối ưu hóa sự phân chia giữa nước xanh và nước xanh để tạo ra lợi ích cho cả người sử dụng đất ở thượng nguồn và người tiêu dùng ở hạ lưu.
– Tín dụng Nước Xanh (GWC) là một cơ chế tài chính hỗ trợ nông dân ở thượng nguồn đầu tư vào các hoạt động quản lý nước xanh được cải thiện. Những người nông dân đó sẽ được hưởng lợi trực tiếp, nhưng lợi ích có thể không đủ để bù đắp cho khoản đầu tư của họ. Để hỗ trợ các khoản đầu tư này, quỹ GWC cần được thành lập bởi những người hưởng lợi từ việc sử dụng nước của khu vực công và tư nhân ở hạ lưu. Tuy nhiên, ban đầu, có thể cần có quỹ công để thu hẹp khoảng cách giữa đầu tư của người sử dụng đất ở thượng nguồn và việc hiện thực hóa lợi ích của những người ở hạ lưu.
Hình 11: Mô hình Tín dụng Nước Xanh (GWC).
– Mô hình đã được thí điểm ở nhiều nơi như enya, Maroc, Trung Quốc và Algeria với sự tài trợ của Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD) và chính phủ Hà Lan phối hợp chặt chẽ với nhiều tổ chức quốc gia khác nhau.
– Nguyên tắc của Tín dụng Nước xanh là Nước chảy tràn và tốc độ bốc hơi cao dẫn đến mất nước xanh, được định nghĩa ở đây là nước được giữ trong đất (xem hình ảnh bên dưới). Các biện pháp bảo tồn đất và nước (SWC) như che phủ và cắt xén theo đường viền làm giảm lượng nước chảy tràn và bốc hơi. Kết quả là lượng nước cung cấp cho cây trồng và khả năng thẩm thấu sâu vào mạch nước ngầm (nước trong xanh) tăng lên. Bên cạnh dòng chảy mặt và lượng bốc hơi cao, xói mòn còn dẫn đến tăng lượng trầm tích trên sông gây ra hiện tượng bồi lắng phù sa cho các con đập. Có nhiều biện pháp quản lý đất và nước có sẵn để giảm xói mòn đất nhanh và cải thiện chất lượng nước.
3.2. Cơ sở pháp lý có liên quan đến cấp nước xanh
Hiện nay chưa có quy định nào liên quan trực tiếp đến cấp nước xanh. Mới chỉ đề cập đến việc cấp nước đô thị [8]:
– Công tác xây dựng thể chế quản lý nhà nước tuy đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng một số văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung và ban hành gây khó khăn trong quá trình thực hiện, có lĩnh vực còn chậm trễ như xây dựng Luật Cấp nước.
– Một số văn bản Luật được nghiên cứu xây dựng mới phức tạp, ảnh hưởng rộng, nội dung liên quan đến nhiều cơ quan, lĩnh vực nên thời gian nghiên cứu xây dựng kéo dài. Việc rà soát, điều chỉnh, quy hoạch, xây dựng cơ chế, chính sách còn thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan hoặc có phối hợp nhưng trách nhiệm tham gia chưa cao làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả quy hoạch, các cơ chế, chính sách ban hành bị chồng chéo, khó thực hiện.
– Thực tiễn xuất hiện nhiều hình thức, mô hình mới về đầu tư, khai thác kinh doanh các công trình hạ tầng cấp nước đô thị, song các quy định pháp lý chưa theo kịp để điều chỉnh các hoạt động này.
– Thiếu cơ chế, chính sách đặc thù để thu hút đầu tư theo hướng xã hội hóa có hiệu quả; thủ tục hành chính còn nhiều bất cập; cơ chế, chính sách thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng chưa đồng bộ.
– Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp cấp nước nói riêng, xã hội hóa cấp nước nói chung được đẩy mạnh, nhưng thiếu quy định ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp đối với phát triển cấp nước và bảo đảm cấp nước an toàn; vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động cấp nước đang giảm dần và chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
– Mô hình quản lý cấp nước cộng đồng, hợp tác xã tại khu vực nông thôn và ban quản lý hay chủ đầu tư chung cư (kết hợp quản lý vận hành công trình cấp nước tại các khu đô thị mới, khu chung cư) còn nhiều bất cập; việc thực hiện Hợp đồng cung cấp dịch vụ cấp nước (giữa doanh nghiệp cấp nước bán buôn và doanh nghiệp cấp nước bán lẻ tại các khu đô thị, khu chung cư, khu dân cư nông thôn …) và mua bán chuyển nhượng cổ phần, tài sản công trình cấp nước chưa được cơ quan, chính quyền địa phương kiểm soát; khi công trình gặp rủi ro, sự cố đã ảnh hưởng đến chất lượng nước và duy trì cấp nước liên tục cho người dân.
– Đối với cấp nước đô thị gồm các văn bản quy phạm pháp luật như sau:
+ Luật:
(1) Liên quan đến quy hoạch: Luật Xây dựng năm 2014 và Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Xây dựng năm 2020; Luật Quy hoạch đô thị năm 2009; Luật Quy hoạch năm 2017 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch năm 2018; Luật giao thông đường bộ 2008;
(2) Liên quan đến quản lý nguồn lực đầu tư, quản lý dịch vụ cấp, thoát nước bao gồm: Luật Đầu tư năm 2020; Luật Đầu tư công năm 2019; Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014; Luật Giá năm 2012; Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010; Luật An toàn thực phẩm năm 2010.
(3) Liên quan đến sử dụng tài nguyên, kiểm soát ô nhiễm môi trường bao gồm: Luật Tài nguyên nước năm 2012; Luật Thủy lợi năm 2017; Luật Đất đai năm 2013; Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
(4) Ngoài ra, trong hệ thống pháp luật, có nhiều luật liên quan đến cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải như: Luật chứng khoán năm 2019, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020; Luật Phòng chống thiên tai 2013,…
+ Nghị định:
Nghị định số 117/2007/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch có hiệu lực từ ngày 17 tháng 8 năm 2007, được sửa đổi, bổ sung bởi: Nghị định số 124/2011/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 117/2007/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 20 tháng 02 năm 2012. Nghị định số 98/2019/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định thuộc lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 02 năm 2020;
Nghị định số 201/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước;
+ Quyết định:
Quyết định số 63/1998/QĐ-TTg ngày18/03/1998 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Định hướng phát triển cấp nước đô thị Quốc gia đến năm 2020;
Quyết định số 1251/QĐ-TTg ngày 12/9/2008 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Quy hoạch cấp nước 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, miền Trung và phía Nam;
Quyết định số 1929/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt định hướng phát triển cấp nước đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050;
Quyết định số 2147/QĐ-TTg ngày 24/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc Phê duyệt Chương trình quốc gia chống thất thoát, thất thu nước sạch đến năm 2025;
Quyết định số 1196/QĐ-TTg ngày 23/07/2014 của Thủ tướng Chính phủ Về việc Phê duyệt đề án “Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống cấp, thoát nước và xử lý chất thải rắn sinh hoạt”;
Quyết định số 1566/QĐ-TTg ngày 9/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Chương trình Quốc gia bảo đảm cấp nước an toàn giai đoạn 2016 – 2025;
Quyết định số 2140/QĐ-TTg ngày 8/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch cấp nước vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050;
Quyết định số 1100/QĐ-TTg ngày 5/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Nhiệm vụ quy hoạch cấp nước vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và Nhiệm vụ quy hoạch cấp nước vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2030 và định hướng đến năm 2050;
Quyết định số 24/1999/QĐ-BXD ngày 25/09/1999 của Bộ Xây dựng về việc ban hành “Định mức dự toán xây dựng cấp thoát nước”;
Quyết định số 16/2008/QĐ-BXD ngày 31/12/2008 của Bộ Xây dựng về việc ban hành “Quy chế đảm bảo an toàn cấp nước”;
Quyết định số 06/2006/QĐ-BXD ngày 17/03/2006 của Bộ Xây dựng về việc Ban hành TCXDVN 33:2006 “Cấp nước – Mạng lưới đường ống và công trình – Tiêu chuẩn thiết kế”;
Quyết định số 590/QĐ-BXD ngày 30/05/2014 về việc Công bố định mức dự toán sản xuất nước sạch và quản lý, vận hành mạng cấp nước.
+ Thông tư:
Thông tư số 01/2008/TT-BXD ngày 02/01/2008 của Bộ Xây dựng về việc hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 117/2007/NĐ-CP ngày 11/7/2007 của Chính phủ về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch; Thông tư số 08/2012/TT-BXD ngày 21/11/2012 của Bộ Xây dựng về việc hướng dẫn thực hiện bảo đảm cấp nước an toàn; Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT/BXD-BCA ngày 10/4/2009 của Bộ Xây dựng và Bộ Công an hướng dẫn thực hiện cấp nước phòng cháy chữa cháy tại đô thị và khu công nghiệp;
Thông tư số 41/2018/TT-BYT ngày 14/12/2018 của Bộ Y tế về việc ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt. Thông tư này thay thế một số Thông tư đã hết hiệu lực: Thông tư số 50/2015/TT-BYT ngày 11/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định việc kiểm tra vệ sinh, chất lượng nước ăn uống, nước sinh hoạt. Thông tư số 04/2009/TT-BYT ngày 17/6/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống (QCVN 01:2009/BYT). Thông tư số 05/2009/TT-BYT ngày 17/6/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt (QCVN 02:2009/BYT) tiếp tục có hiệu lực để áp dụng cho các đối tượng quy định tại Khoản 2 Điều 4 Thông tư 41/2018/TT-BYT đến hết ngày 30/6/2021 khi Quy chuẩn kỹ thuật địa phương về chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt được ban hành và có hiệu lực;
Thông tư số 44/2021/TT-BTC ngày 18/6/2021 của Bộ Tài chính Quy định về khung giá, nguyên tắc, phương pháp xác định giá nước sạch sinh hoạt;
Thông tư số 17/2021/TT-BTNMT ngày 14/10/2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
+ Quy chuẩn:
Công tác quy hoạch cấp nước đô thị được quy định tại Quy chuẩn quốc gia về quy hoạch QCXDVN 01:2008/BXD.
Về yêu cầu kỹ thuật của công trình hạ tầng cấp nước được quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 07-1:2016/BXD “Các công trình hạ tầng kỹ thuật. Công trình cấp nước”.
Các văn bản quy phạm pháp luật và các chương trình, định hướng ban hành trong thời gian qua đã làm rõ cơ chế ưu đãi sử dụng đất, khuyến khích đầu tư công trình cấp nước; Tăng cường khả năng tiếp cận nguồn nước sạch của cộng đồng dân cư nghèo thông qua miễn tiền đấu nối nước sạch; quy định nội dung, trách nhiệm và sự phối hợp các đơn vị cấp nước, chính quyền địa phương trong lập, triển khai kế hoạch bảo đảm cấp nước an toàn; nâng cao hiệu quả hoạt động công trình cấp nước và chống lãng phí nguồn nước sạch và đẩy mạnh việc thực hiện bảo đảm cấp nước an toàn, kiểm soát rủi ro, nâng cao chất lượng dịch vụ cấp nước và bảo vệ sức khỏe con người.
Tuy nhiên cần có nhiều nghiên cứu hơn để có cái nhìn tổng quan về cấp nước xanh đô thị để từ đó tìm ra hướng giải quyết, giữ gìn, vận hành nguồn nước này hiệu quả và bền vững.
3.3. Cơ sở thực tiễn
3.3.1. Kinh nghiệm thế giới
Ứng dụng tín dụng nước xanh ở Trung Quốc [24]:
Trước tình hình thiếu nước ngọt ở miền Bắc Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng Dự án chuyển nước Nam-Bắc trị giá 62 tỷ USD (các tuyến phía Đông, Trung và Tây). Dự án có thể chuyển 44,8 tỷ mét khối nước mỗi năm từ sông Dương Tử ở miền nam Trung Quốc tới lưu vực sông Hoàng Hà ở miền bắc khô cằn Trung Quốc.
Hình 13: (Tuyến trung chuyển nước từ Nam lên Bắc từ Hồ Đan Giang Khẩu đến Bắc Kinh). Nguồn: Internet
Dự án Tuyến giữa (MRP) chuyển nước từ Nam ra Bắc chuyển nước từ Hồ chứa Đan Giang Khẩu trên sông Hàn, một nhánh của sông Trường Giang, đến Thành phố Bắc Kinh qua các kênh đào. MRP sẽ giảm thiểu cuộc khủng hoảng tài nguyên nước ở Bắc Kinh, Thiên Tân và đồng bằng Bắc Trung Quốc, đồng thời tăng diện tích tưới lên 0,6 triệu ha, 6,4 tỷ m3 để cung cấp nước đô thị và công nghiệp, 3,0 tỷ m3 cho nông nghiệp, cho các tỉnh Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc và Hà Nam, đồng thời cải thiện đáng kể môi trường sinh học và môi trường đầu tư của các khu vực tiếp nhận, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế ở Trung Quốc. Tuy nhiên, áp lực ngày càng tăng đối với các biện pháp đảm bảo an toàn cả về chất lượng và số lượng nguồn nước trong vận chuyển nước Nam Bắc.
Chính phủ Trung Quốc đang xây dựng khung pháp lý quốc gia về bồi thường sinh thái lưu vực đầu nguồn, thanh toán quốc tế cho các dịch vụ môi trường nhằm làm rõ quyền sở hữu của các bên liên quan, đặc biệt là thượng nguồn và hạ lưu các lưu vực sông. Quản lý & Tín dụng Nước Xanh cho Trung Quốc (GWM&C) dự kiến sẽ được điều chỉnh và triển khai, hợp tác chặt chẽ với các đối tác Trung Quốc tại lưu vực Hồ chứa Đan Giang Khẩu, một phần đại diện của lưu vực sông Dương Tử ở Trung Quốc. GWM&C cho phép định lượng mức độ giảm xói mòn, tăng năng suất, lượng bồi lắng, lượng nước sẵn có và sản lượng điện cần thiết để tính toán chi phí và lợi ích kinh tế của các biện pháp bảo vệ môi trường. Thông tin này cho phép phát triển một cơ chế tài chính.
Điển hình là Hồ chứa Đan Giang Khẩu, nằm ở thành phố Đan Giang Khẩu, tỉnh Hồ Bắc (xem bản đồ trên), là nguồn nước cho Dự án Tuyến đường Trung lộ (MRP) để vận chuyển nước từ Nam ra Bắc nhằm chuyển nước từ Hồ chứa Đan Giang Khẩu trên sông Hàn Giang, một phụ lưu của sông Trường Giang, đến thành phố Bắc Kinh qua các kênh dọc theo dãy núi Funiu và Taihang. MRP sẽ giảm thiểu cuộc khủng hoảng tài nguyên nước ở Bắc Kinh, Thiên Tân và Bắc Trung Quốc, đồng thời tăng diện tích tưới lên 0,6 triệu ha, 6,4 tỷ m3 cho cấp nước đô thị và công nghiệp, 3,0 tỷ m3 cho nông nghiệp, cho Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc và Hà Nam, đồng thời cải thiện đáng kể môi trường sinh học và môi trường đầu tư của các khu vực tiếp nhận, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế ở Trung Quốc.
Hình 14: Hồ Đan Giang Khẩu là hồ chứa quan trọng trong công trình dẫn nước “Nam thủy Bắc điều” của Trung Quốc, dự án vận chuyển nước lớn nhất thế giới [25].
Thí điểm tín dụng nước xanh ở Algeria [26]:
Dân số tăng nhanh ở Algeria đã gây áp lực lớn về tài nguyên nước ở đây. Những thay đổi về quản lý và sử dụng đất làm thay đổi cân bằng nước tổng thể, dẫn đến sự gia tăng dòng chảy bề mặt, dòng chảy cực đại, xói mòn đất và bồi lắng ở các hồ chứa ở hạ lưu, làm giảm lượng nước sẵn có trên lưu vực sông.
Thí điểm về GWC đã được ra đời, điển hình là dự án trình diễn GWC đã được thành lập trong chương trình Hà Lan “Internationaal Excelleren, 2g@there”, cho Oued de la Mina, một tiểu lưu vực của Lưu vực Cheliff ở Bắc Algeria. Một thành phần quan trọng của dự án trình diễn này là định lượng tiềm năng của các biện pháp can thiệp GWC bằng cách sử dụng cái gọi là Bộ công cụ GWC. Bộ công cụ này là sự kết hợp của ba thành phần: (i) nguồn dữ liệu, (ii) công cụ đánh giá phân tích và (iii) hệ thống trình bày và ra quyết định. Dựa trên các mô hình mô phỏng máy tính, tình hình hiện tại được so sánh với các tình huống mà GWC lẽ ra đã được triển khai. Việc định lượng này được thực hiện bởi hai công cụ mô hình hóa: SWAT và WEAP. SWAT (Công cụ đánh giá nước trong đất) được phát triển đặc biệt để khám phá tác động của những thay đổi trong quản lý đất và nước đối với dòng chảy, tái tạo và xói mòn nước ngầm. WEAP (Công cụ lập kế hoạch và đánh giá nước) liên kết các tương tác thượng nguồn và hạ lưu và đặc biệt mạnh mẽ để đánh giá và so sánh các kịch bản khác nhau.
Hình 15: Khoanh vùng khu vực dự án GWC ở Algeria
Sau nhiều chuyến thăm chuẩn bị, một hội thảo đã được tổ chức tại Algiers vào tháng 1 năm 2014 với sự tham gia của đại diện của nhiều tổ chức quan trọng liên quan đến các vấn đề quản lý đất và nước thuộc Bộ Tài nguyên Nước (MRE) và Bộ Nông nghiệp (MADR), nơi có kết quả ban đầu của Các bài tập lập mô hình SWAT và WEAP được trình bày và thảo luận về kế hoạch làm việc cho những tháng tới.
Vào tháng 9 năm 2015, dự án đã chính thức kết thúc với khóa đào tạo cho khoảng 25 chuyên gia trẻ từ nhiều tổ chức khác nhau của Algeria, sau đó là hội thảo tổng kết cấp cao kéo dài nửa ngày tại Institut National de Perfectionnement de l’Équipement (INPE) ở Ksar El Boukhari.
3.3.2. Kinh nghiệm Việt Nam
Tại Việt Nam nhiều dự án nhà máy cấp nước đang chuyển dịch từ việc khai thác nguồn nước ngầm thành việc sử dụng nguồn nước mặt làm đầu vào để xử lý. Điển hình là thành phố Hà Nội đang triển khai lộ trình ngừng sử dụng khai thác nước ngầm [27].
– Năm 2022 tổng nguồn nước sạch tập trung cung cấp cho thành phố đạt 1.520.000m3/ngày – đêm, trong đó nước ngầm chiếm khoảng 46% (khoảng 700.000m3/ngày – đêm). Lượng nước này cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng của 100% nhân dân khu vực đô thị với chỉ tiêu 100-150 lít/người/ngày và mở rộng cấp nước cho khu vực nông thôn. Hà Nội được đánh giá là có trữ lượng nước ngầm dồi dào. Tuy nhiên việc khai thác với trữ lượng lớn như hiện nay sẽ ảnh hưởng lớn đến trữ lượng và chất lượng nước ngầm trong tương lai. Số liệu báo cáo 700.000m3 mới chỉ là số liệu trong quy hoạt, trên thực tế con số này lớn hơn do các đơn vị khai thác nước cho các công ty, xí nghiệp, nhà máy chưa công khai và tại các hộ dân có hàng triệu giếng khoan tự phát. Việc khai thác không hợp lý, cộng thêm tốc độ đô thị hóa nhanh đã khiến mực nước ngầm sụt giảm, gây sụt lún đất, ô nhiễm asen trong các tầng chứa nước…
– Để bảo vệ nguồn nước ngầm cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ cấp nước, bảo đảm cấp nước an toàn, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 554/QĐ-TTg ngày 6/4/2021, phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch cấp nước Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó thủ đô Hà Nội sẽ giảm dần quy mô công suất các nhà máy nước ngầm. Đến năm 2025 dự kiến lượng nước ngầm khai thác giảm còn 615.000m3/ngày – đêm (chiếm khoảng 25,8%); giai đoạn đến năm 2030 còn 504.000m3/ngày – đêm (chiếm khoảng 17,7%) và giai đoạn đến năm 2050 còn 413.000m3/ngày – đêm (chiếm khoảng 11,5%).
Hình 16: Nhà máy Nước Tương Mai (quận Hoàng Mai) đang giảm dần khai thác nước ngầm xuống còn 20.000m3/ngày – đêm; đến năm 2025 còn 15.000m3/ngày – đêm, đến năm 2050 sẽ đóng hẳn các giếng nước ngầm.
– Việc giảm khai thác nguồn nước ngầm nhưng vẫn phải đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng nước sạch thì thành phố đã đôn đốc để sớm đưa vào hoạt động Nhà máy Nước mặt sông Hồng công suất 300.000m3/ngày – đêm; nâng công suất Nhà máy Nước mặt sông Đà, sông Đuống theo lộ trình; đầu tư xây dựng mới Nhà máy Nước Xuân Mai sử dụng nguồn nước mặt sông Đà…
Hình 17: Dự án Nhà máy nước mặt sông Hồng [28].
Việc hạn chế khai thác nguồn nước ngầm đang dần làm gia tăng thêm trữ lượng nước ngầm tại các đô thị. Đây chính là cơ sở phát triển nguồi nước xanh trong đất trong tương lai.
- 4. ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CẤP NƯỚC XANH CHO ĐÔ THỊ TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Trong quá trình đổi mới đất nước (vươn mình) mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện, trong đó có sự thay đổi về đơn vị hành chính, đồng thời số lượng đô thị sẽ bị ảnh hưởng bởi chính sách này, ngoài ra các quy hoạch của các đô thị trên cả nước sẽ ảnh hưởng không hề nhỏ, gần như toàn bộ các quy hoạch đô thị đang tạm dừng triển khai, như đã trình bày nội dung trên tại mục 2.3.Cấp nước trong quy hoạch đô thị của Việt Nam hiện nay đã chỉ ra rằng: Quy hoạch cấp nước phải đồng bộ với Quy hoạch đô thị, quy hoạch chung, quy hoạch tỉnh, quy hoạch cấp vùng và quy hoạch cấp quốc gia… tạo ra sự khó khăn cho quy hoạch cấp nước thực hiên. Nhưng đây cũng là cơ hội mới tạo ra sự bài bản về quy hoạch cấp nước nói riêng khi các đô thị có thời gian để nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới trong quản lý cấp nước như ứng dụng GIS trong quản lý cấp nước xanh mà các nước phát triển trên thế giới đã áp dụng, ngoài ra, hiện nay chúng ta có thể nghiên cứu công nghệ AI áp dụng vào thực tiễn về cấp nước xanh cho đô thị, điều mà chưa nước nào áp dung.
Để đảm bảo phát triển nguồn nước xanh cho đô thị tại Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như:
Quy hoạch cấp nước xanh:
– Đề xuất trong quy hoạch cần có phần quy định việc khai thác nguồn nước ngầm nhằm hạn chế việc khai thác quá mức nguồn nước ngầm tại các đô thị.
– Định hướng sử dụng nguồn nước ngầm cho việc tưới cây tại các đô thị. Việc sử dụng nguồn nước này theo 1 cách tuần hoàn từ nước ngầm tưới cây, nước sẽ trở lại lòng đất mà không làm ảnh hưởng đến trữ lượng nước ngầm. Đây cũng chính là hoạt động cấp nước xanh đô thị.
– Với các dự án trong quy hoạch có liên quan đến việc khai thác, sử dụng nguồn nước ngầm cần có biện pháp bảo vệ nước dưới đất phải lấy phòng ngừa là chính, kết hợp với việc khắc phục, hạn chế ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước dưới đất đối với các tầng chứa nước quan trọng và tại các khu vực nhạy cảm…
– Quy định các vùng được khai thác, vùng không được khai thác, chiều sâu cách mặt đất 20m, 30m, 40m, 50m… tuỳ khu vực. Từ đó mới đưa ra các mức cần được bảo vệ cao, bảo vệ trung bình và bảo vệ thấp.
Bảo vệ môi trường nước xanh:
– Giải pháp khắc phục ô nhiễm môi trường đất:
+ Hạn chế xả thải các loại chất thải chưa qua xử lý ra môi trường đất.
+ Trong sản xuất nông nghiệp, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tạo ra các loại cây có khả năng chống chọi và thích nghi với điều kiện môi trường, ưu tiên sử dụng thiên địch có ích trong việc canh tác nông nghiệp.
+ Trông nhiều cây xanh, chống xói mòn.
+ Tái chế rác thải, hạn chế sử dụng chất thải nhựa.
– Giải pháp khắc phục ô nhiễm nguồn nước:
+ Tại các đô thị cần xây dựng tách hệ thống nước thải thay vì sử dụng hệ thống thoát nước chung như hiện nay. Nước thải cần phải được xử ly trước khi thải ra môi trường.
+ Nâng cao nhận thức và ý thức của cộng đồng: Cộng đồng cần hiểu được tầm quan trọng của nguồn nước đối với cuộc sống. Từ đó có ý thức tự giác bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ ngôi nhà chung. Tuyên truyền bảo vệ môi trường nước, vận động nâng cao ý thức toàn dân thực hiện giải pháp vệ sinh môi trường, tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ nguồn nước…
+ Sử dụng tiết kiệm nguồn nước sạch, tái sử dụng nước.
+ Giảm thiểu rác thải và sử dụng các sản phẩm hữu cơ và tái chế.
– Chính sách khai thác bền vững nguồn nước xanh đô thị:
+ Có chính sách khai thác sử dụng, tái chế nguồn nước xanh hiệu quả.
+ Hạn chế việc san lấp ao hồ, công viên để phát triển nhà ở. Xây dựng hệ thống hồ để dự trữ nước mặt đây chính là nguồn cung cấp nước xanh trong tương lai.
Ứng dụng công nghệ AI trong quản lý cấp nước xanh
Việc đưa công nghệ AI trong quản lý cấp nước chúng ta có thể kiểm soát chặt chẽ được các điểm yếu mà con người gặp khó khăn trong quá trình vận hành cấp nước, giúp tiết kiệm nhân lực, thời gian chi phí, cung cấp kết quả số nước nhanh chóng, chính xác và nâng cao chất lượng chăm sóc tới người dân sử dụng nước sach.
– Giải pháp “Kiểm duyệt chỉ số đồng hồ nước bằng Trí tuệ nhân tạo (AI)”, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và thị giác máy trong việc đọc chỉ số đồng hồ và đánh giá tình trạng đồng hồ nước từ ảnh chụp” sẽ giúp các doanh nghiệp cấp nước giải quyết được các bài toán.
– Ứng dụng trí tuệ nhân tạo này sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc kết nối trực tiếp nhà cấp nước và người sử dụng nước sach. Các chỉ số hóa đơn, tiền nước, cung cấp các thông tin về dịch vụ cấp nước. Hỗ trợ tiếp nhận đơn đăng ký cấp nước. Hỗ trợ thanh toán tiền nước. Tiếp nhận yêu cầu, ý kiến của khách hàng sử dụng nước sạch cũng được giải quyết nhanh chóng và thuận tiên.
– Đối với nhà cung cấp nước sạch thì công nghệ AI sẽ giúp kiểm soát số liệu áp lực, lưu lượng, chất lượng nước. Số liệu này được truyền về hệ thống giám sát liên tục 24/24. Đưa ra mô hình ngưỡng vận hành an toàn tại từng điểm đo. Tự động gửi cảnh báo tới người vận hành khi số liệu đột biến, bất thường (Ví dụ: Vỡ ống, áp lực nước cao cần điều chỉnh giảm bớt…). Đưa ra chỉ số chất lượng nước cấp. Điểu tiết nước cấp tới người tiêu dùng theo thời gian thông minh (giờ cao điểm cấp nước, các ngày lễ, nghỉ…) [29].
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững”